Liên Minh SVN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Liên Minh SVN

Liên Minh Các Lực Lượng Quốc Gia Việt Nam
 
CổngCổng  Trang ChínhTrang Chính  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng Nhập  Đăng kýĐăng ký  Sách HiếmSách Hiếm  TiViTiVi  Diễn Đàn Liên KếtDiễn Đàn Liên Kết  
--------------------------------------- Lực Lượng Dân Tộc Cực Đoan Việt Nam -------------------------- Cộng sản hay không cộng sản ? Chúng tôi là những người yêu nước luôn muốn chống lại những thế lực phá họai một đất nước tự do ! Trả thù lại những gì bọn ngọai bang đã gây ra cho đất nước chúng ta ! Thù hận những kẻ thù đã gây ra tang thương cho dân tộc giống nòi việt nam ! Luôn mong muốn trả thù cho dân tộc !
Cộng sản hay không, một lực lượng đã thành công đánh đuổi được thực dân, mang lại độc lập và thống nhất cho đất nước mà là “Việt Gian”, vậy thì tổ chức tôn giáo của những người Việt hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang, đi làm tay sai cho thực dân Pháp để đưa nước nhà vào vòng nô lệ thì gọi là gì ? Là những người “yêu nước” hay sao?
Có bao giờ chúng ta đặt một câu hỏi cho chính chúng ta, những người quốc gia, là nếu những điều chúng ta viết ở hải ngoại trong những chiến dịch “tố Cộng” là đúng, thì làm sao CS có thể thắng trong cả hai cuộc chiến?

 

  Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và

Go down 
Tác giảThông điệp
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty25/8/2010, 19:31

Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và

Charlie Nguyễn


Con người phải dùng lý trí nhận định đức tin, không qua mặc khải mù quáng

Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác



Lời giới thiệu của tác giả

Dominic Nguyễn Chấn

(Charlie Nguyễn)



Công Giáo La Mã là một đặc sản văn hóa phi nhân tính (inhuman) của Tây Phương, bắt nguồn sâu xa từ cái nôi tối cổ của nền văn minh du mục Ả Rập là Babylon. Những huyền thoại làm đảo lộn lịch sử thế giới và gieo tai họa khủng khiếp cho cả loài người như những huyền thoại về Vườn Địa Đàng (Garden of Eden) huyền thoại con người được Thượng Đế tạo ra từ đất sét (clay), huyền thoại về Chúa Cứu Thế Ki Tô (Christos / Messiah / Savior) đều xuất phát từ Babylon. Thậm chí phần lớn những nghi lễ tại các nhà thờ Công Giáo ngày nay như các giám mục khi làm lễ thường đội nón hình đầu cá (fish-head mitre), Bánh Thánh hình tròn (round-shaped Host), Mặt Nhật để dâng Mình Thánh Chúa mạ vàng (Gilded Montrance) trông giống như mặt trời tỏa ánh sáng (sunburst design), ảnh tượng Đức Mẹ bế Chúa Cứu Thế hài đồng v.v... Tất cả đều là những sản phẩm văn hóa du mục của Babylon, đặc biệt là đạo thờ thần Mặt Trời, mà những Tổ Phụ Sáng Lập đã tiếp thu gần như trọn vẹn để lập ra đạo Công Giáo La Mã như ta thấy hiện nay.


Trong thế giới sơ khai có rất nhiều dân tộc thờ Thần Cá. Người Babylon tin Chúa Cứu Thế là Cá. Trong Kinh Thánh cổ Talmud của đạo Do Thái, danh từ Chúa Cứu Thế (Messiah) còn được gọi là DAG có nghĩa là cá . Các dân tộc Bắc Âu từ thuở xa xưa thờ thần Cá Frigga và họ kiêng thịt chỉ ăn cá vào ngày thứ sáu. Từ đó, danh từ trong Anh ngữ của dân Anglo-Saxon (gốc Bắc Âu) mới có chữ Friday là ngày Thứ Sáu. Trong Đạo Hindu của Ấn Độ thì Thượng đế Vishnu là vị thần nửa người nửa cá (half fish - half man).


Người Hy Lạp đặt ra tên JESUS bằng cách ghép chữ đầu của tiếng ICHTBUS, nghĩa là Cá (Fish) và các chữ đầu của cụm từ EOU UIOS SOTER, nghĩa là Con của Đức Chúa Trời (Son of God) để tạo thành tên IESOUS (hàm ý JESUS là Thần Cá Cứu Thế Con của Thượng Đế). Điều này cho thấy ngay tên của JESUS cũng là một sản phẩm thần thoạị có nguồn gốc tôn giáo của thời kỳ bán khai của nhân loại. Nguời Anh và Pháp phiên âm danh từ Hy Lạp IESOUS thành JESUS. (Xin đọc Deceptions and Myths of the Bible - Lloyd M. Graham p. 326- 327 ). Người Hoa phiên âm JESUS thành GIA-TÔ. Trong sách Kinh Nguyện Toàn Niên của hai giáo phận Hà Nội và Bùi Chu có Kinh Cầu Hồn Hán tự có câu : "Thần Chúa Gia Tô thục tội thi ân chi đại", có nghĩa là: Chúa Giêxu chuộc tội và ban ơn rất lớn.


Đặc biệt nhất là nghi lễ "Rước Mình Thánh Chúa", một nghi lễ thiêng liêng và quan trọng số một của đạo Công Giáo, chính là nghi lễ rập khuôn đúng theo tục lệ man rợ của người Babylon thời xưa làm lễ tế thần bằng cách bắt những cô gái trinh hoặc những trẻ thơ trong đám những người nô lệ cô thế để làm vật hy sinh. Các nạn nhân vô tội bị nướng chín như heo quay để tế thần. Sau đó các tu sĩ và giáo dân đạo thờ thần Baal vui vẻ chia nhau ăn thịt nạn nhân trong tiếng trống và phèng la inh ỏi. Do đó, ngôn ngữ Tây phương phát sinh ra danh từ CANNI-BAL để gọi những tu sĩ của đạo thờ thần Baal (priests of Baal), tức thần Molech, cha của Chúa Cứu Thế Tammuz (Tammuz, the Savior), mà dân Babylon tôn thờ cách đây khoảng mười ngàn năm.


Cũng như tại các nhà thờ Công Giáo ngày nay, các linh mục làm lễ MISA , có nghĩa là Bữa Tiệc tế thần Jehovah (Đức Chúa Cha) bằng thân xác của Đức Chúa Con (Jesus). Sau khi Chúa Cha ăn thịt Chúa Con xong thì đến phiên các cha cố và giáo dân cùng chia nhau ăn bánh thánh và uống ruợu nho mà họ gọi là "Rước Lễ" hoặc chịu "Phép Mình Thánh Chúa" (Corpus Christi). Giáo lý Công Giáo buộc mọi tín đồ phải tin rằng lúc rước lễ là lúc họ đang ăn thịt thật và uống máu thật của Jesus đã chết thối cách đây gần hai ngàn năm! Đó là nghi lễ tôn giáo trọng đại của những người tự hào là "văn minh" đang sống trong một nước "mọi rợ"phương Đông là nước Việt nam !. Nhờ phúc đức của ông bà tổ tiên nhân hậu để lại nên dân tộc Việt Nam chỉ có khoảng 8% dân số hồ hởi phấn khởi chạy theo nền văn minh khoái khẩu món thịt người (Cannibal). Số còn lại 92% dân số Việt Nam may mắn đều là dân "mọi rợ" (theo nghĩa "mọi rợ" của sách kinh Công Giáo dưới cặp mắt cú vọ của các cố đạo thừa sai cũng như dưới cặp mắt mơ huyền của các cố đạo bản xứ mất gốc.)


Theo sử gia Hislop thì cái ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa của người Công Giáo là học đòi tục lệ của tà giáo mọi rợ ăn thịt người. Các tu sĩ tà giáo bị buộc phải ăn thịt của mỗi người bị hy sinh một chút. Vì vậy danh từ "Canah-Baal" có nghĩa là tu sĩ đạo thờ Thiên Chúa Baal. Danh từ này trở thành căn ngữ cho tiếng Anh "Cannibal" có nghĩa là kẻ ăn thịt đồng loại. (The idea of eating the flesh of God was of cannibalistic inception. Since heathen priests ate a portion of all sacrifices, in case of human sacrifices, priests of Baal were required to eat human flesh. Thus Cannah-Baal, that is priests of Baal, has provided the basis for our modern word Cannibal that means the person who eats the flesh of other human beings. - The Two Babylon by Hislop. p.232).


Sử gia trứ danh Duran, người Pháp, với những bộ sử lớn lao của ông đã được dịch ra rất nhìều thứ tiếng trên thế giới đã viết : "Niềm tin về sự biến thể của bánh và ruợu thành máu và thịt của Chúa Jesus trong nghi lễ Công Giáo La Mã là một trong những nghi lễ cổ xưa nhất của những tôn giáo thời ăn lông ở lỗ" (The belief in transubstantiation as practiced in the Roman Catholic Church is one of the oldest ceremonies of primitive religion. - The Story of Civilization : The Reformation, p. 749).


Những chuyện hết sức kinh dị dã man khiến không ai ngờ có thể có trong đạo Công Giáo mà nhiều người đã lầm tưởng là đạo của người văn minh. Càng tìm hiểu về đạo Công Giáo, mọi người đều sẽ phải sửng sốt để nhận ra rằng Công Giáo La Mã thực sự chỉ là đạo của những linh hồn bán khai. Tôi thiết nghĩ những người Công Giáo Việt Nam hải ngoại có trình độ Anh ngữ cao nên tìm đọc cuốn sách nghiên cứu rất công phu của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow (Ralph Woodroow Evangelistic Association P.O. Box 124 Riverside CA 92502 ) là tác phẩm BABYLON MYSTERY RELIGION - ANCIENT AND MODERN, xuất bản lần đầu năm 1966 và tái bản năm 1990 với 350.000 ấn bản. Danh từ "Tôn giáo của Huyền thoại Babylon" chính là tên gọi của hội này áp dụng cho Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic Church).


Trong Lời Giới Thiệu của Tiến sĩ Alberto Rivera, cựu linh mục Dòng Tên, nhân dịp nhà xuất bản Chic Publications ở California cho ra mắt tác phẩm The Secret History of The Jesuits được dịch ra từ tác phẩm nguyên bản tiếng Pháp của linh mục Dòng Tên Edmond Paris năm 1975, TS Rivera đã viết:"Các tổ phụ sáng lập đạo Công Giáo đã tuân thủ hầu như nguyên vẹn hệ thống tôn giáo cổ của Babylon, pha trộn thêm vào đó là khoa thần học Do Thái Giáo và khoa triết lý của Hy Lạp. Tất cả những thứ đó đã dọn đường cho sự hình thành guồng máy Công Giáo La Mã. Quyền lực của Giáo Hoàng và của các định chế Công Giáo không những chỉ phá hoại sinh mạng thể xác con người như các tu sĩ dòng Đa Minh đã làm qua hệ thống Tòa án Dị giáo, mà còn len lỏi xâm nhập vào mọi lãnh vực của đời sống nhân loại. . . . bằng cách áp đặt các chế độ độc tài và làm suy yếu các nền dân chủ như nền dân chủ của Hoa Kỳ. Hỡi những người Công Giáo (Hoa Kỳ và Canada), tôi viết vì sự cứu rỗi của các người."

(The Early Fathers observed most of the ancient Babylonian system plus Jewish theology and Greek philosophy. They paved the way for the Roman Catholic machine that was to come into existence. . . The power of pope and the Roman Catholic institution, not by just destroying the physical life of the people as the Dominican priests were doing through the Inquisition, but by infiltration and penetration into every sector of life . . , by setting up dictatorships and weakening democracies such as the USA.... Yours, for the Savation of the Roman Catholic people. Dr. Alberto Rivera, Ex-Jesuit Priest. - The Secret History of the Jesuits - Dr. Rivera's Introduction).


Sử gia Hoa Kỳ Lloyd M. Graham đã bỏ công nghiên cứu rất công phu những tội ác của Công Giáo La Mã. Truớc hết là tội lừa bịp và mê hoặc dân chúng bằng những huyền thoại của Babylon và Syria. Ông tố cáo tội ăn cắp trắng trợn của tà giáo ác ôn này ngay trên trang bìa tác phẩm trứ danh của ông : Deceptions and Myths of The Bible (484 trang, A Citadel Press Book, 1991) : " Kinh Thánh chẳng phải là Lời Chúa mà là những thứ ăn cắp của ngoại giáo . Huyền thoại Vườn Địa Đàng với Adam Evà ăn cắp từ kho Babylon. Các huyền thoại như Trận Đại Hồng Thủy, tàu No-e, Isaac, Salomon, Samson và thậm chí ngay cả tên thánh Mai-sen cũng đều là đồ ăn cắp từ thần thoại của Syria." (..The Bible is not the word of God but a steal from pagan sources. Its Eden, including Adam and Eve, were taken from the Babylonian account, its Flood and Deluge ...its Ark and Ararat their equivalents in a score of of Deluge myths, even the names of Noah's sonsare copies, so also were Isaac's sacrifice, Salomon's judgement and Samson 's pillar act. Moses is fashioned after the Syrian Mises.)


Công Giáo La Mã là tên sát nhân vô địch trong lịch sử nhân loại. Từ ngày bạo chúa La Mã Constantine sáng lập ra nó năm 325 đến nay nó đã giết hại trên hai trăm triệu người ( Wars, tyrany and oppression of Christian nations since the days of Constantine have caused the death of more than 200.000.000 people - p.463) . Về phương diện văn minh và văn hóa, Công Giáo La Mã đi tới đâu là hủy diệt toàn bộ nền văn minh, văn hóa của người ta đến đó. Nó đã hủy diệt không còn dấu tích các nền văn hóa của các dân tộc Da Đỏ ở châu Mỹ LaTinh. Vào thế kỷ 5 nó đã tiêu hủy nền văn minh vô cùng quý giá của Hy Lạp, tổng giám mục Chrysotom khoe : "Mọi dấu vết của nền triết học và văn chương của thế giới cổ đã bị xóa sạch khỏi mặt đất". ( By the fifth century the destructionof the ancient world has vanished from the face of the earth - p. 281).


Công Giáo là tên thủ phạm đã làm cho nền văn minh nhân loại bị thụt lùi 15 thế kỷ. "Trong 15 thế kỷ đó dân Công Giáo không biết trái đất tròn. Trái lại, dân Hy Lạp từ thế kỷ 6 TCN đã được Pythagore dạy rằng trái đất chẳng những tròn mà còn quay quanh mặt trời. Vào thế kỷ 3 TCN Aristarchus đã phác họa lý thuyết về Thái Dương Hệ tương tự như phát minh vĩ đại của Copernicus thế kỷ 19. Cũng vào thế kỷ 3 TCN , Erathostine đã đo được chu vi của trái đất." (This resulted in fifteen hundred years of darkness, in which the Christian people did not know the earth is round. And yet as the sixth century B, C., Pythagoras taught that the earth was not only round but going around the sun. In third century B.C., Aristarchus outlined the true heliocentric theory developed as a great discovery nineteenth century later by Copenicus. In the third century B. C. Erathostene measured the circumsference of the earth - p. 448)


Giáo lý Công Giáo dạy rằng : "Máu của Jesus đã rửa sạch tội lỗi của thế gian . Thử hỏi kẻ nào là thủ phạm đã cuốn sạch sự thiện lành của thế giới này? Đó là tà đạo Công Giáo chẳng những lấy sự ngu dốt để xây dựng giáo hội mà còn dùng đến cả những thủ đoạn bất lương, sự ác độc và phương tiện chíến tranh nữa" (According to their teaching: The blood of Christ washed away the sins of the world. What it actually washed away the sanity of the world ? it takes more than ignorance to found a religion, it takes dishonesty, cruelty and war as well -p.447)


"Người Công Giáo tin rằng "thánh" Phê Rô và các giáo hoàng đứng đầu Hội Thánh có quyền buộc hay tha tội cho mọi người trên thế gian. Chẵng lẽ những bậc thánh hiền có trước Jesus như Pythagoras, Plato, Socrates và Đức Phật Thích Ca cũng cần phải tùy thuộc vào cái quyền buộc tội hay tha tội đó của gã Do Thái đánh cá ngu dốt hay sao?" (Catholics are indeed credulous but they cannot be so credulous as to believe that pre-Christian sages like Pythagoras, Plato, Socsates and Buddha require this ignorant Jewish fisherman to bind and loose their souls. - p. 438)


"Bất cứ ai tin rằng bánh và ruợu nho có thể biến thể thành thịt và máu thật của Jesus để gọi là "Bánh Hằng Sống" bởi mấy câu nói lảm nhảm của một thằng cố đạo ngu dốt thì hãy thử cho một chút arsenic vào bánh và ruợu đó xem Mình Thánh Chúa có thành một liều thuốc độc giết người không ?. Cái lề thói ngu ngốc của tín đồ Công Giáo ăn thịt uống máu Jesus với hy vọng sẽ hấp thụ được những đức tính giống như Jesus là cái tỳ vết nghi lễ mọi rợ của những kẻ chuyên ăn thịt sống mê tín tin tưởng rằng cứ ăn thịt uống máu của ai thì sẽ có những đặc tính tốt của người đó như sức mạnh , lòng can đảm v.v..." (Anyone who think that ordinary bread and wine are actually transustantiated into the flesh and blood of Christ by the numbled words of an ignorant priest should put a little arsenic in them first. He will finnd then that the flesh and blood of Christ are deadly poison. The ignoraant Christian custom of eating and drinking commonplace bread and wine in the hope of gaining some Christlike virtue is but a relic of the savage rite of omophagia - the eating and dringking another person' s flesh and blood to acquire his qualities , strength, courage and so on. - 335).


Công Giáo La Mã không phải là một tôn giáo mà là một Đế Quốc. Phải gọi nó là Đế Quốc Công Giáo vì nó chiếm toàn Âu Châu và Bắc Phi làm lãnh thổ của nó và đế quốc Công Giáo chẳng khởi đầu từ Jesus mà thật sự khởi đầu từ tên Bạo Chúa La Mã Constantine. Người Công Giáo coi Constantine là "người của Chúa" vì y ngưỡng mộ cây thập ác với khẩu hiệu " Dưới dấu hiệu Thánh Giá ta sẽ chinh phục thế giới" .Tên bạo chúa này đã chiếm toàn Âu Châu cho Công Giáo do Jesus dạy y làm như vậy hay sao ?. Sử gia Gibbon viết chí lý như sau : "Công Giáo La Mã dùng bạo lực để bảo vệ đế quốc do nó thủ đắc bằng sự lừa dối "( p. 454).


Người Công Giáo Ái nhĩ Lan ngày nay đang chiến đấu chống Anh quốc để dành độc lập quốc gia và để bảo vệ niềm tin Công Giáo, nhưng họ quên rằng chính Giáo hoàng Adrian IV đã bán đứng đất nước Ái nhĩ Lan cho Anh Quốc vào thế kỷ 12. Ngày nay văn khố Vatican còn lưu trữ bức thư của GH Adrian IV gửi vua Anh Henry II như sau : "Không còn nghi ngờ gì nữa, như Ngài đã biết, Ái Nhĩ Lan và các đảo của nó đều đã thuộc Giáo Hội La Mã vì dân chúng đã tiếp nhận đức tin Công Giáo. Nếu Ngài muốn chiếm đảo quốc này để khai thác, áp đặt luật pháp và bắt mọi người phải nộp thuế cho Tòa Thánh, tôi (giáo hoàng) sẵn sàng chuyển nhượng đảo quốc đó cho Ngài". (It is not doubted and you know it, that Ireland and all its islands which have recieved the Faith belong to the Church of Rome. If you wish to enter that Island to drive vice of it , to cause law to be obeyed and Saint Peter's pence to be paid by every house, it will please us to assign it to you. -page 470).


Mấy chục năm sau, vào cuối thế kỷ 12, Giáo Hoàng Innocent III xúi giục vua Pháp tấn công Anh quốc vì ở Anh có phong trào chống Công Giáo có thể gây nguy hại đến "quyền lợi thiêng liêng" (the divine right) của Tòa Thánh. (p. 469).


Giáo Sử Công Giáo là Huyết Lệ Sử của nhân loại. Đoàn quân Thập Tự của Công Giáo La Mã tàn bạo dã man không thể tưởng tượng nổi. Trong cuộc thánh chiến với Hồi giáo tại Jerusalem nó đã giết hại sáu chục ngàn trẻ em. Bọn chúng nhân danh Chúa Ki Tô phạm những tội ác làm rợn tóc gáy của mọi người. Xin hãy nghe Thập Tự Quân viết thư về gia đình để khoe thành tích tội ác của chúng : "Ở nhà có biết chúng tôi đối xử với kẻ thù của chúng ta như thế nào ở Jerusalem không? Ở cổng thành Solomon và tại Đền Thánh Chúa, đoàn kỵ binh của chúng tôi phải lội qua những vũng máu của địch lên tới đầu gối của đoàn ngựa". (If you would know how we treated our ennemies at Jerusalem know that in the portico of Salomon and in the Temple, our men rode through the unclean blood of the Saracenes which came up to the knees of our horses. - 462)


Giáo Hội Công Giáo La Mã chẳng những là một tổ chức tội ác vô tiền khoáng hậu với qui mô rộng lớn khắp thế giới mà nó còn là một trung tâm sản xuất đồ giả lớn nhất thế giới để thu lợi. Đồ giả phổ biến nhất của Tòa Thánh là các "Thánh Tích" (relics). Chúng lấy răng chó con hay răng súc vật đem bán và nói đó là những chiếc răng sữa của Chúa Jesus, lấy mảnh da loài vật để làm giả miếng da cắt được từ lỗ rốn của Ngôi Hai Thiên Chúa hoặc là miếng da cắt từ đầu chim của Ngài khi cha mẹ đưa Ngài đến Đền Thánh chịu phép cắt bì (The Circumcision). Chúa chỉ chịu phép cắt bì một lần duy nhất nhưng Tòa Thánh có tới ba miếng da quy đầu của Ngài. Chúa cũng chỉ bị đóng đinh trên thập giá một lần duy nhất với một cây thập giá duy nhất làm bằng hai khúc gỗ và ba cái đinh, nhưng tổng số gỗ và đinh mà Vatican đem bán làm bằng cớ về "Ơn Cứu Chuộc thiêng liêng vô cùng của Chúa nếu thâu gom lại có thể đóng được một chiếc tàu lớn để vượt Thái Bình Dương."


Đại úy trưởng toán hành hình Jesus trên đồi Golgotha tên là Longinus, cũng là một tín đồ bí mật của Jesus, đã không đập gẫy chân Jesus như y đã đập gẫy chân hai kẻ bị đóng đinh cùng một lượt với Jesus. Nhờ vậy Jesus đã thoát chết vì được cứu sống sau đó. Đại úy Longinus cũng chỉ quệt nhẹ vào cạnh sườn Jesus để che mắt bọn lính dưới quyền nên chỉ tạo cho Jesus một vết trầy nhẹ mà thôi. Tiếng Hy Lạp trong bản chính Kinh Thánh Tân Ước là NYSSEIN, có nghĩa là vết trầy nhẹ (a light scratch). Vào thế kỷ 5, Jerôme dịch "kinh thánh" từ nguyên bản Hy Lạp sang tiếng La Tinh. Tên lưu manh Jerôme đã dịch NYSSEIN thành APERIRE, có nghĩa là "vết thương mở toang" (opened wound) làm người đoc tưởng lầm vết trầy nhẹ trên cạnh sườn Jesus là một "coup de grâce". (Những não bộ đậu hũ của Hội Đồng Giám Mục và của giới trí thức Công Giáo Việt Nam đều tin rằng Nyssein là "Nhát Đâm Dứt Điểm" ? ? ! !). Đây là một trong những thủ đoạn lừa dối trắng trợn lớn nhất trong lịch sử nhân loại được Vatican dùng làm nền tảng cho giáo lý Cứu Chuộc Dỏm của Jesus. Bản dịch Kinh Thánh lừa dối của Jerôme được gọi là Vulgate (Kinh Thánh Phổ Thông) là bản văn Kinh Thánh chính thức của Giáo Hội Công Giáo. Toàn bộ giáo lý của cái gọi là "Đạo Thánh Đức Chúa Trời" hoàn toàn đặt trên căn bản dối trá bịp bợm 100% trong âm mưu vô cùng hiểm độc của tập đoàn không lương thiện quốc tế là Giáo Hội Công Giáo La Mã, họ là kẻ thù nguy hiểm số một của dân tộc Việt Nam và của cả loài người chúng ta!


Longinus chỉ giả vờ "đâm" Jesus bằng một cái giáo duy nhất, nhưng Vatican có tới ba cái giáo thánh tích và cả ba thánh tích này đều được Tòa Thánh xác nhận là thứ thiệt của một cái giáo của Longinus! (...Enough nail and wood from the cross to build a ship of the line. There are three relics of one spear with it captain Longinus pierced Jesus'side. - page 471 Deception and Myth / Xin đọc thêm "The Side Wound and the Miracle Drink" trong tác phẩm để đời "The Jesus Conspiracy - The Turin Shroud & The Truth about the Resurrection" của Holger Kersten & Elma R. Gruber, Reprinted in USA by Element, pages 249 - 265).


Vì tội ác và tính lươn lẹo siêu quần bạt chúng của Giáo Hội Công Giáo vượt quá sức chịu đựng của những người Ki Tô Giáo nên từ đó có nhiều quốc gia Ki Tô đã chống lại Tòa Thánh để lập thành những giáo hội riêng biệt nhằm mục đích tự giải thoát giáo hội và quốc gia của họ thoát vòng kìm kẹp ngạo ngược của quỷ sứ ở Vatican. Một trong những Phong Trào Chống Đối lớn nhất là cái mà người Việt Nam chúng ta sai lầm gọi là đạo TIN LÀNH. Thực sự trên thế giới này chưa từng có một tôn giáo nào tự xưng tên là đạo Tin Lành (Religion of Good News ? ! ). Tự điển Anh ngữ chỉ có một chữ PROTESTANTISM mà thôi. Danh từ này có nghĩa đơn giản là "Phong Trào Chống Đối Giáo Hội Công Giáo La Mã", Công Giáo gọi họ là Đạo Thệ Phản, chứ chẳng bao giờ có cái nghĩa quái đản là đạo Tin Lành[*]. Các giáo phái Tin Lành cũng thuộc hệ thống Ki Tô Giáo. "Good News" là danh từ được dịch từ tiếng Hy Lạp "Gospel" tức Sách Phúc Âm- thực chất là Bad News, very very bad! So với Công Giáo là Chúa Sơn Lâm thì Tin Lành là quan đại thần Linh Cẩu . Xin đề nghị đồng bào chúng ta nên vứt bỏ danh từ "Tin Lành" vì dùng danh từ này để dịch chữ tiếng Anh "Protestanism" là hoàn toàn sai lầm và vô tình nhục mạ ngôn ngữ Việt Nam.


Phong trào Protestanism do tu sĩ Công Giáo Luther sáng lập, nhưng trước đó nhiều thế kỷ đã có rất nhiều phong trào nổi lên chống Giáo hội Công Giáo. Hầu hết các phong trào đó đều đã bị Vatican dập tắt trong biển máu. Sử gia Mỹ Lloyd M. Graham viết: "Không phải chỉ đợi đến thời Luther mới có phong trào Protestanism mà trước đó nhiều thế kỷ đã từng có nhiều phong trào như vậy nổi lên chống lại các tội ác và sự thối nát của Công Giáo La Mã. Thằng quỷ Phêrô làm tổn thương và lăng nhục Âu Châu... Chúng ta không bao giờ quên biết bao nhiêu triệu người đã bị tàn sát bởi những Tòa Án Dị Giáo, nhưng cũng đừng quên rằng những tội ác đó vẫn tồn tại vì Vatican tái xác nhận trong thế kỷ của chúng ta dưới triều đại GH Leo XIII : "Hình phạt tử hình là những biện pháp rất cần thiết và hữu hiệu giúp cho Giáo Hội đạt được những mục tiêu của mình để chống lại các cuộc bạo loạn chống Giáo Hội hoặc các mưu toan phá vỡ sự thống nhất của hệ thống tu sĩ Công Giáo".


(Protestanism sprang not from Luther exclusively but from centuries of protestation against the crime and corruption of the Catholic Church, SATAN PETER had outraged all Europe. . . . And let us not forget the known millions the Holy Inquisition destroyed. A thing of the past, you say, yes, but not the authority, it still exists and was reaffirmed in our own century, under Leo XIII: "The death sentence is a necessary and efficacious for the Church to attain its end when rebels act against it and disturbers of the ecclesastic unity" - p. 468).


Công Giáo La Mã là một "giáo hội" tham lam quyền lực và tiền của vật chất vô đáy. Tội ác của nó cao ngất trời xanh như Hy Mã Lạp Sơn. Nhưng tội ác quan trọng hơn cả là nó cứ muốn dìm nhân loại phải chìm sâu mãi trong bóng tối của sự ngu dốt. Điều mà mọi người cần nhất là sự hiểu biết, kiến thức khoa học và quyền năng chế ngự thiên nhiên do kiến thức mang lại. Nhưng rõ ràng đó là những thứ mà giáo hội Công Giáo chống đối, vì nó biết rõ rằng : SỰ NGU DỐT LÀ MẸ CỦA LÒNG SÙNG ĐẠO VÀ SỰ ỦNG HỘ GIÁO HỘI CỦA NÓ (Ignorance is the mother of devotion and the supporter of the Church. - p.458).


Sử sách của văn minh nhân lọai viết về sự ác độc man rợ của tà đạo Công Giáo La Mã đầy ngập cả thư viện Hoa Kỳ khiến chúng ta phát ngộp không thể kể ra cho xiết được . Vì vậy tôi chỉ xin trích ra một số những nhận định tiêu biểu như trên mà thôi. Tôi ước mong giới trí thức Việt Nam nên chọn lựa để dịch sang Việt ngữ một số những tác phẩm giá trị để cứu đồng bào ta khỏi sa vào bóng tối nguy hiểm của tà đạo Công Giáo. Tà đạo này là một thứ ung nhọt nưng mủ từ lâu trên thân xác Mẹ Việt Nam của chúng ta. Gặp khi lạ gió trở trời, cái ung nhọt Công Giáo La Mã lại một phen hành hạ thân xác Mẹ Việt Nam bằng những cơn co giật đau đớn khiến nhiều phen suýt phải vong mạng. Thiết tưởng nay đã đến lúc toàn dân Việt Nam hãy rán chịu đau một lần mà tìm mọi cách hợp lý trị dứt cái ung nhọt mưng mủ này để các thế hệ tương lai thoát khỏi những tai ách truyền thống của nó . Hơn nữa, lòng từ bi bao dung của dân tộc đối với những kẻ vô minh ác đức và sức chịu đựng của đồng bào trước những tội ác tày trời của nó cũng chỉ có giới hạn.


Trong những thế kỷ trước, người Á Đông đã coi Công Giáo là một thứ cỏ dại và họ đã dùng bạo lực để tiêu diệt nó, Cùng một cách nhìn đó về đạo Công Giáo nhưng người Nhật đã thành công, còn ở Việt Nam thì việc dùng bạo lực diệt đạo lại thất bại. Tạp chí National Geographic Vol.182, No. 5 ra ngày 18 - 11- 1992 có bài "Portugal's sea road to the East" p. 56- 93, cho biết : Vào năm 1638, tại Nagasaki (Nhật Bản) có khoảng 100,000 giáo dân Công Giáo làm nội ứng cho quân Bồ Đào Nha tấn công xâm chiếm Nhật Bản . Triều đình Nhật cử tướng Iemitsu sang đại quân tới Nagazaki để "Bình Tây Sát Tả". Kết quả là bọn xâm lược Bồ Đào Nha bị đánh bật khỏi lãnh thổ Nhật Bản. Tất cả cha cố thừa sai bị bắt đều bị đóng đinh vào thập giá với những chiếc áo dòng của loài quạ, chứ chúng không bị lột trần truồng nhục nhã như Chúa của họ trên đồi Golgotha. Còn đạo quân thứ năm của địch là tập đoàn giáo dân Công Giáo ở Nagasaki đã bị diệt gọn 37.000 người. Một số giáo dân sống sót nhẩy lên tàu Bồ Đào Nha trốn sang Hội An Việt Nam. Sau biến cố quyết liệt này, nước Nhật sạch bóng thù trong giặc ngoài và tiến lên địa vị siêu cường kinh tế văn hóa như ngày nay khiến cho cả thế giới phải kính phục.


Cũng cùng một hoàn cảnh và cùng một cách nhìn về đạo Công Giáo như người Nhật, các vua quan Việt Nam đã thất bại trong việc cấm đạo, có lẽ vì bản chất của người Việt Nam vừa quá hiền lành vừa chịu ảnh hưởng của Tam Giáo Đồng Nguyên và chính quyền thời đó lại thiếu cương quyết. Một phần lý do đưa đến thất bại là sự sai lầm của Gia Long đã quá tin dùng Bá Đa Lộc và một đoàn tùy tùng đông đảo của y nên đã tạo cơ hội cho tà đạo Tây dương này có đủ điều kiện bắt rễ sâu vào đất nước ta.


Linh mục Phan Phát Huồn, tác giả cuốn Việt Nam Giáo Sử, nơi trang 20, đã tự hào viết về sự sống còn của Công Giáo Việt Nam như sau :"Máu đã nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quý làm cho đất phì nhiêu tốt tươi. Lấy võ lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người Công Giáo thì chẳng những người Công Giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm". Đúng vậy, tà đạo Công Giáo cũng như cỏ dại, nếu chúng ta lấy gậy để đập cỏ dại thì cỏ dại chẳng những không chết mà chỉ làm cho bông cỏ dại văng xa tứ tung và ngày càng lan rộng ra thêm. Cũng như chúng ta lấy súng đại bác bắn vào bóng tối cũng không thể nào xua đuổi được nó. Chỉ có ánh sáng của sự hiểu biết mới xua đuổi được bóng tối Công Giáo La Mã một cách hoàn toàn và vĩnh viễn ra khỏi bờ cõi Việt Nam. Nếu ta học bài học giáo sử của Phan Phát Huồn mà lấy máu tử đạo để nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quý thì chỉ làm cho đất nước thêm ô nhiễm mà thôi!.


Dưới con mắt của các sử gia và học giả Tây phương thì Công Giáo La Mã là tôn giáo thứ hai của các huyền thoại man rợ thuộc một giáo hội suy tàn (a fallen Chruch) của Babylon . Vậy chúng ta cần nên biết Babylon ở đâu và nó đã làm những chuyện gì ghê gớm vậy ?. Sau đây là vài nét sơ lược về lịch sử của cái xứ Ả Rập - Do Thái độc đáo này:


Toàn vùng Babylon đã bị chôn vùi dưới những lớp cát sa mạc sau một trận đại hồng thủy gây ra do sự đổi dòng đột ngột của con sông Euphrate vào thế kỷ 4 TCN. Do đó, trong gần 23 thế kỷ, nhân loại đã không biết Babylon là thủy tổ của các tôn giáo xây dựng giáo lý trên các huyền thoại của Babylon gồm có Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo và Hồi giáo, gọi chung là Độc Thần Giáo (Monotheism/One-God Religions). Các đạo Độc Thần còn được gọi là Thiên Chúa Giáo vì tất cả đều thờ chung Một Thiên Chúa được mô tả trong Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái (God of the Bible). Các đạo Độc Thần đều có chung một ông tổ là nhân vật thần thoại Abraham, cho nên các đạo này còn được gọi là các đạo của Abraham (Abrahamic Religions).


Từ khi lập quốc Do Thái, cháu nội của Abraham là Jacob đã đặt tên cho tân quốc gia Do Thái là Isra-El để vinh danh Thiên Chúa El (Elohim) của họ và họ đã tôn thờ vị Thiên Chúa này qua biểu tượng một con bò đực bằng vàng (the gold molten Bull). Jacob tuyên bố đã được gặp mặt đối mặt với vị Thiên Chúa có hình tượng con bò này (Because I have seen El face to face - Gennessis 32 : 30- 31 ). Khoảng năm 1250 TCN, Thánh Maisen (Moses) lập ra đạo Do Thái và đổi tên Thiên Chúa El thành Jehovah, theo nguyên ngữ Hebrew JEHOVAH có nghĩa là "Thiên Chúa Của Các Tổ Phụ" (God of Fathers).


Như vậy, Thiên Chúa Jehovah của Mai-sen cũng chính là Thiên Chúa El của cha con Abraham, chỉ khác một điều là Đạo Do Thái sau này không còn dùng tượng bò làm tượng Chúa nữa mà thôi. Thiên Chúa Jehovah sau này trở thành Đức Chúa Cha, tức Ngôi Thứ Nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi theo giáo lý của Đạo Ki Tô (Christian God = Trinity God) và Thiên Chúa Jehovah cũng là Thiên Chúa Allah của đạo Hồi. Nói tóm lại, các đạo thờ Thiên Chúa đều cùng một nguồn gốc từ đạo thờ Thần Bò El của Abraham mà ra. Bà Karen Amstrong, nguyên nữ tu Công Giáo, tốt nghiệp Đại học Oxford, hiện là giáo sư Đại học Leo Baek Anh Quốc, tác giả cuốn sách bán chạy nhất (best seller) A History of God, 460 trang, The NY Times xuất bản 1993. Tác giả đã trình bày hết sức rõ ràng đầy đủ về toàn hệ thống các đạo thờ Chúa và đây là tài liệu tham khảo chính yếu để viết về những vấn đề liên quan đến Độc Thần Giáo trong tập sách này.


Tuy các đạo Độc Thần đều phát sinh từ một nguồn gốc ở Babylon, có chung một tổ phụ lập đạo Abraham và thờ cùng một Chúa được mô tả trong kinh thánh Cựu ước Do Thái (God of the Bible) nhưng họ luôn luôn coi nhau như những kẻ thù không đội trời chung!.Qua nhiều thế kỷ, nhân loại đã không biết nguồn gốc sâu xa nguyên thủy của các đạo thờ Chúa là từ vùng Babylon. Phải đợi đến cuối thế kỷ 19, do những sự tình cờ, các nhà khảo cổ thế giới đã phát giác đầy đủ bằng chứng cho những sự thật lịch sử này nhờ những di vật khai quật được từ vùng sa mạc cách thủ đô Baghdad của Iraq 60 dặm về phía Nam và kéo dài đến vịnh Ba Tư. Đó chính là vị trí của Babylon 24 thế kỷ trở về trước.


Sau hơn một thế kỷ làm việc miệt mài nghiên cứu các di vật, đến nay, các nhà khảo cổ quốc tế hầu như đã giải mã toàn bộ những bí mật về Babylon. Những bằng chứng khách quan thu thập được từ những khám phá dầy công của ngành khảo cổ đã soi sáng cho nhân loại thấy rõ thực chất giả tạo bịp bợm của các đạo Độc Thần nói chung và của Ki Tô Giáo nói riêng. Người ta thường hiểu sai: văn minh Tây Phương là văn minh Ki Tô giáo (Christian civilization). Nhưng ngày nay, những kiến thức về lịch sử khách quan cũng như các kiến thức khoa học đang đẩy lùi Ki Tô Giáo ra khỏi biên giới các nước phương Tây, chẳng khác nào ánh sáng xua đuổi bóng tối. Dưới con mắt của giới trí thức Tây Phương, Công Giáo La Mã được coi là dòng chính của Ki Tô Giáo (Roman Catholic Church is the main line of Christianity) hiện đang mau chóng biến thành một thứ rác rưởi ghê tởm trong đời sống của người Âu Mỹ.


Đây là một sự thực đang diễn ra trước mắt mọi người, nhưng điều đáng buồn là đa số "trí thức" Công Giáo Việt Nam tại hải ngoại không khác gì những con đà điểu chỉ biết chúi đầu xuống cát để không phải nhìn thấy sự thật phũ phàng. Nhưng dù cố tình chạy trốn họ cũng không thể tránh khỏi phải đối dịên với sự thật. Thảm trạng suy thoái của Công Giáo Bắc Mỹ hiện đang ở trong tình trạng báo động đỏ, đến nỗi linh nục tiến sĩ Andrew Greenley và nữ tu tiến sĩ Mary Durkin đã hợp tác với nhau viết sách "Làm Thế Nào Để Cứu Giáo Hội Công Giáo ?" (How To Save The Catholic Church), 258 trang, Viking Penguin Inc. Canada 1984) . Tiến sĩ thần học nổi tiếng trong giới Công Giáo Mỹ David Tracy đuợc hai tác giả mời viết bài Tựa cho cuốn sách này đã phải than rằng : "Đời sống Công Giáo dường như đang bốc hơi với tốc độ chóng mặt". (Catholic life seemed to evaporate with dizzying rapidity).


Trong chương đầu sách, hai tác giả tu hành của giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ đã viết với giọng văn đau khổ: "Chỉ một thời gian ngắn sau khi khai mạc Công Đồng Vatican II trong năm 1962, Giáo hoàng Gioan XXIII nói với một du khách rằng ngài chỉ có ý hé mở cánh cửa sổ cho có chút gió mát thổi vào giáo hội. Tại nước Mỹ, chút gió mát của giáo hoàng đã biến thành một trận cuồng phong. Chỉ một sớm một chiều, cả thập niên 1960 là thời đại đảo điên trong đời sống Hoa kỳ" (Shortly after the beginning of the Second Vatican Council in 1962, Pope John XXIII told a visitor that he intended to open the window and fresh air to blow through the Roman Catholic Church. In the US, the papal breeze turned into a TORNADO. Then, almost overnight, the 1960s were a turbulent time in American life - pages 3 – 4).


"Cửa sổ một khi đã mở không đóng lại được nữa. Thông điệp của GH Paul VI về việc kiểm soát sinh đẻ (Humanae Vitae) đã đập nát sự hồ hởi trong giáo hội sau Công Đồng Vatican II. Ngày nay, chín phần mười Công Giáo Mỹ không chấp nhận cái thông điệp đó" (The window once opened could not be closed. Pope Paul VI ‘s encyclical on birth control shattered the euphoria that had flourished after Vatican II. Today nine out of ten American Catholics do not accept it - Page 6). "Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã trở thành Giáo hội Công Giáo tự trị" (American Catholic Church became a Do-It-Yourself Catholicism. page Cool. "Trong thập niên 1960, một nửa tổng số Công Giáo Mỹ là đám dân di dân vừa nghèo vừa thường xuyên thất học" (By 1960s, half the American Catholics were poor and frequently uneducated immigrants. page 11) . Riêng trong năm 1984 có một triệu rưỡi phụ nữ Mỹ bỏ đạo. Các tác giả dự đoán số linh mục Mỹ sẽ giảm quá nửa vào năm 2000 và sẽ vĩnh viễn không được bổ khuyết (p. 11- 15).


Trình độ trí thức của người Mỹ da trắng càng lên cao bao nhiêu thì Giáo hội Công Giáo Mỹ càng suy tàn bấy nhiêu. Điều đó thật dễ hiểu vì họ đã nhận thức được bản chất của Công Giáo La Mã chỉ là một thứ cặn bã của nền văn hóa du mục máu lửa xuất phát từ Babylon. Sách Khải Huyền của Saint John, tức sách cuối cùng của bộ Thánh Kinh Tân Ước Ki Tô giáo, đã gọi Babylon là một giáo hội suy tàn (a fallen church) và ví nó như một mụ đàn bà lăng loàn, một con điếm thối (a defiled woman, a harlot). Sách Thánh kinh Khải Huyền đã in bằng những dòng chữ hoa lớn (in big capital letters) câu sau đây : "MYSTERY BABYLON THE GREAT, THE MOTHER OF HARLOTS AND ABOMINATIONS OF THE EARTH" (Revelation 17 : 1- 6). Xin tạm dịch : "Giáo hội huyền thoại Babylon vĩ đại là mẹ của các con điếm thối và của mọi chuyện khủng khiếp trên trái đất".


Cái cặn bã văn hóa gốc Ả rập - Do thái là Công Giáo La Mã đang dần dần được chuyển từ khối dân Mỹ da trắng sang các bãi rác tinh thần là những cộng đồng di dân Công Giáo gốc Mễ, Philippines và Việt nam. Hiện nay tại nhiều nhà thờ Công Giáo Mỹ người ta thấy rất ít giáo dân da trắng đi xem lễ ở nhà thờ của họ mà chỉ thấy toàn giáo dân gốc Việt và Mễ như ruồi lấp kín hết mọi hang hố xó xỉnh nhà thờ Mỹ!. Hang đá "Đức Mẹ Sầu Bi" ở Port Land thuộc tiểu bang Oregon đã bị Công Giáo Mỹ bỏ phế từ lâu. Vậy mà sau 1975, giáo dân Công Giáo Việt Nam tỵ nạn đã biến cái hang đá khỉ ho này thành một Trung Tâm Hành Hương náo nhiệt gần như hang đá Lộ Đức (Lourdes) ở Pháp. Hàng năm, Công Giáo Việt Nam hải ngoại tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu qui tụ tới mấy chục ngàn người hành hương đổ về hang đá "Đức Mẹ Sầu Bi" ở Port Land. Báo chí Mỹ gọi là "Annual Trip to Grotto" là điều người Mỹ văn minh trước đây đã không làm nổi.


Những kẻ lãnh đạo chóp bu của Giáo hội Công Giáo đã nhận thức được thực tế phũ phàng là họ đã hết thời làm ăn ở khu vực các nước Âu Mỹ văn minh đã được hấp thụ một nền giáo dục khai sáng trí tuệ. Cho nên Đức Thánh Cha John Paul II mới hạ cố ban hành Tông Thư "Ecclesia In Asia" (Đại Hội tại Á Châu) hoạch định một chuơng trình truyền giáo lớn lao tại Á Châu trong thế kỷ mới. Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đựơc chỉ thị họp mặt tại Samphran Thái Lan từ ngày 3 đến 13 tháng 1 năm 2000 để học tập về Tông Huấn của Sếp Lớn. Những điểm quan trọng trong kế hoạch của Sếp Lớn là giáo hội phải vuốt ve người nghèo và giới trẻ. Đặc biệt là phải dịu dàng vuốt ve phụ nữ chứ không được thô bạo chà đạp quyền lợi của họ theo truyền thống như xưa. Giáo hội phải hòa nhập vào khung cảnh sống của dân tộc bản xứ (như rắn lục hòa mình vào màu xanh cây cỏ trên đồng ruộng Việt Nam - chú thích của Ch. Ng.) và quan trọng nhất là phải cư xử như Giáo Hội đã trở thành bạn đường đồng cảm với người dân Á Châu. (Xin đọc các bài từ trang 23 đến 29 báo Dấn Thân bộ III số 35 tháng 3 & 4 - 2000 của Cơ Quan Nghiên Cứu Học Tập Thông Tin thuộc Phong Trào Giáo Dân Houston. P.O. Box 66449 Houston, TX 77266- 6449).


Dù môi trường hoạt động và phương cách truyền giáo có nhiều thay đổi trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, Vatican vẫn giữ nguyên bản chất cố hữu của nó là một Con Bạch Tuộc của Chủ Nghĩa Đế Quốc Tinh Thần (Spiritual Imperialism). Giới trí thức Tây phương mỉa mai gọi nó là Con Bạch Tuộc Của Đức Chúa Trời (Octopus Dei). Biệt danh này mang nhiều ý nghĩa : Đầu não của con bạch tuộc Công Giáo quốc tế vẫn là Vatican, mỗi một tổ chức giáo hội ở mỗi quốc gia là một cái vòi của nó. Mỗi một Hội đồng Giám mục của các giáo hội địa phương là một bộ tham mưu của đạo quân thứ năm nằm vùng thường trực trong lòng các quốc gia sở tại và luôn luôn ở trong tình trạng ứng chiến đợi lệnh từ trung ương Vatican. Theo thông lệ, cứ năm năm một lần, các giám mục trên toàn thế giới phải luân phiên nhau về chầu Tòa Thánh để báo cáo mọi chuyện, kể cả các bí mật quốc gia. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là ban tham mưu Đạo Quân Thứ Năm của địch đang nằm vùng ứng chiến trong lòng dân tộc Việt Nam.


Tác phẩm The Next Pope 186 trang, Harper-Collins Publishers xuất bản, là một trong những cuốn sách chính trị bán chạy nhất trong năm 1995 tại Mỹ (One of the year ‘s political blockbusters). Tác giả Peter Hebblethwait là ký giả chuyên nghiệp về tòa thánh La Mã cho biết: "Thế giới ngày nay vẫn để tâm theo dõi xem ai sẽ là Giáo hoàng kế vị Jean Paul II. Không có một cuộc bầu cử nào được thế giới quan tâm cho bằng cuộc bầu cử Giáo hoàng ở Vatican!.Bởi lẽ đằng sau những bức tường Vatican, lịch sử nhân loại đang được hình thành" (behind those walls, history is being made).


Nhận xét về Công Giáo Việt Nam và Cuba, tác giả viết: "Có sáu hồng y trong các nước cộng sản hoặc cựu cộng sản sẽ lái Hội Đồng Hồng Y về phe hữu. Paul Joseph Phạm Đình Tụng, tổng giáo phận Hà Nội và Jaime Luca Ortega Y Alamino, tổng giáo phận Havana, Cuba, có triển vọng sẽ lãnh đạo giải thể chế độ của họ" (There are six from Communist or ex-Communist countries who will swing the college to the right. Paul Joseph Phạm đình Tụng, archbishop of Hanoi and Jaime Luca Ortega y Alamino, archbishop of Havana Cuba, will be expected to preside over the disintegration of their regimes. Page 178 ). Công Giáo Việt Nam luôn luôn hành động tuân theo răm rắp mọi chỉ thị của Vatican. Cho nên dù cho Việt Nam ở dưới chế độ Cộng sản hay không Cộng sản là điều thực sự Công Giáo không quan tâm. Vấn đề chính yếu là mọi chính quyền ở Việt Nam có cùng phe và phục vụ quyền lợi của Vatican hay không mà thôi. Trong bất cứ một hoàn cảnh lịch sử nào, bản chất của giáo hội Công Giáo Việt Nam luôn luôn là một quốc gia riêng biệt nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Bề ngoài người Công Giáo là người Việt Nam, nhưng xin đồng bào chớ nhìn vào ngoại hình của họ mà lầm to. Linh hồn Công Giáo Việt Nam đã được bán đứt cho quỷ sứ đế quốc La Mã từ lâu rồi. Các sách kinh Công Giáo đã biến mỗi một người Công Giáo Việt Nam sùng đạo thành một tên Việt gian chân chính [*]. (Đó là lời Chúa).


Tuy nhiên, cái hình ảnh của con bạch tuộc cũng bao hàm một ý nghĩa khác rất có lợi ích cho dân tộc Việt Nam: Một khi cái đầu não Vatican của con bạch tuộc bị người ta đập chết thì tất cả các cái vòi của nó trên khắp thế giới sẽ bị mất đầu và dù không bị đập cũng tự nhiên phải chết theo đồng loạt. Lúc đó, vấn đề cáo chung của các tổ chức Giáo hội Công Giáo địa phương không cần phải đặt ra. Điều đó không có nghĩa là hiểm họa Công Giáo đã chấm dứt. Vấn đề là phải giải quyết cái di sản của nó còn để lại ở phía sau. Đó là cái tập thể tín đồ mê muội mà xã hội có trách vụ phải giáo dục để giải cứu họ thoát khỏi nanh vuốt của cái Giáo hội đã lừa bịp họ bấy lâu.


Sự giáo dục nhằm mục đích giúp họ từ bỏ cái mặc cảm là một đàn súc vật dưới sự cai quản của ngoại nhân (một đàn chiên cùng một chủ chăn) để họ nhận thức được nhân phẩm cao quí của mình ngõ hầu tự khôi phục bản thân thành những người đứng thẳng (Homo-Erectus) theo đúng nghĩa của nó. Sự giáo dục vẫn phải được tiếp tục cho đến khi nào họ từ bỏ được cái thói tật bệnh hoạn thích ăn thịt đồng loại (sick cannibalism) - mặc dù chỉ là tưởng tượng nhưng thực chất vẫn là một đám mọi ăn thịt người - để họ có thể hội nhập trở lại vào xã hội của những người có tâm hồn và tinh thần bình thường (normal) như tuyệt đại đa số đồng bào chúng ta.


Nữ học giả Công Giáo Mỹ Joanne H. Meehl, tác giả cuốn "The Recovering Catholic - Personal Journeys of Women Who Left The Church" , 300 trang, Prometheus Books New York xuất bản năm 1995, đã viết trong bài tựa như sau : "Là một người viết sách có nghĩa là tôi đã phải đọc nhiều sách. Sự tò mò của tôi về niềm tin Công Giáo đã dẫn tôi đến những kệ sách thư viện và các cơ quan cung cấp dữ kiện. Tôi đã không để mình phải cô đơn, nên tôi đã đăng những lời rao của tôi trên nhiều sách báo khác nhau, từ những tạp chí phát hành cả nước cho đến những tờ báo địa phương, để khảo sát về phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi. Tất cả những người trả lời tôi đều là những người bày tỏ sự tức giận của họ đối với giáo hội Công Giáo". (Being a writer means that I am a reader. My curiosity about the Catholic faith sent me to the library shelves and data services. I couldn’t be alone, so I placed advertisements in various publications, national magazines and local papers, to survey women of all ages who were angry to the Catholic chuch to respond). Tác giả đã dành một chương dài từ trang 116 đến 132 duới nhan đề "Refusing To Be A Cow" kêu gọi phụ nữ Công Giáo Mỹ bỏ đạo. Theo bà, tín đồ Công Giáo là những con bò và bỏ đạo Công Giáo có nghĩa là từ bỏ kiếp sống của loài bò !


Vatican là chúa sơn lâm già nua lão luyện trong đời sống rừng rú tinh thần, nhưng nó không phải là con thú dữ duy nhất trong cõi sơn lâm trên đời này. Bên cạnh chúa sơn lâm Vatican còn có nhiều loại chó rừng ác độc hoặc linh cẩu nham hiểm (hyenas) cũng đang ráo riết cạnh tranh nghề nghiệp với nó trên mọi lục địa. Sau khi nước Nga mở cửa tự do năm 1991, lập tức có ngay 232 tấn sách Kinh Thánh Tin Lành bằng Nga ngữ đã rời cảng Texas xâm nhập quốc gia cựu Cộng sản này.


Trong thập niên 1980, riêng giáo phái Baptist cũng có 3000 nhân viên truyền giáo hoạt động trong 94 quốc gia. Tổ chức International Youth For A Mission hiện có 2500 nhân viên truyền giáo dài hạn và 10.000 nhân viên truyền giáo ngắn hạn (long-term/short-term missionaries). Tổ chức Tin Lành "The Giant Campus Crusade" thành lập năm 1960 với trên một trăm nhân viên, hiện nay họ tuyên bố đã có nhiều ngàn nhân viên đang hoạt động trong trên 130 quốc gia. Thậm chí quốc hội Do Thái (The Israel Knesset) năm 1978 đã phải ban hành đạo luật ngăn cấm các phái đoàn truyền giáo (Anti-missionary Laws) . Kẻ nào truyền giáo tại Do Thái sẽ bị phạt $3.200 và 5 năm tù. Tại Nam Dương, các sở ngọai vụ chỉ cấp phép di trú cho các người truyền giáo trong thời hạn tối đa là 6 tháng.


Tổ chức giảng đạo Tin Lành bằng truyền thanh và truyền hình đại qui mô trên bình diện toàn cầu CBN, do Pat Roberson cầm đầu, đưa ra khẩu hiệu : "Programs to Change the World". Tổ chức này chú trọng đến Nhật và Trung quốc. Họ đã lập 700 câu lạc bộ Tin Lành tại Nhật và Pat Roberson gọi Trung quốc là "thị trường mênh mông của hàng hóa và các nhà truyền giáo Hoa kỳ" (Vast market for American products and preachers) . Tất cả mọi thủ đoạn và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc Tin Lành đã được vạch trần qua tác phẩm Đại Hạ Giá Món Hàng Cứu Chuộc (Salvation For Sale - by Gerard Thomas Straub, an insider’s view of Pat Roberson’s ministry - Prometheus Book 1986).


Tại Việt Nam, Tin Lành khó có thể cạnh tranh nổi với Công Giáo La Mã, ngoại trừ ở khu vực những dân tộc thiểu số miền Cao Nguyên Trung Phần. Nhưng dù Công Giáo hay Tin Lành thì cũng cùng một thứ văn hóa máu lửa Ki Tô Giáo mà thôi, tất cả đều đem lại cùng một hậu quả là làm phân tán đại khối dân tộc, phá nát truyền thống văn hóa nhân bản cao đẹp của nòi giống Lạc Việt và làm suy yếu tiềm lực quốc gia trong mọi nỗ lực dựng nước và giữ nước. Đứng trên lập trường thuần túy dân tộc, mọi người Việt Nam yêu nước, dù đang ở trong nước hay ở hải ngoại, không phân biệt xu hướng quốc gia hay cộng sản, tất cả đều cần phải cảnh giác trước thứ vũ khí văn hóa hiểm độc đội lốt tôn giáo của chủ nghĩa đế quốc tinh thần.


Dân tộc Việt Nam đã đánh thắng nhiều loại thực dân đế quốc xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Nhưng đó chỉ là những chiến thắng chống lại các loại vũ khí gươm giáo súng đạn vật chất của địch. Lịch sử Việt Nam không thiếu gì những bài học đắng cay về sự thất trận khi địch dùng thứ vũ khí văn hóa hiểm độc đội lốt tôn giáo của đức Bác Ái để tạo lập những đoàn quân thứ năm hùng hậu làm nội ứng cho chúng. Đạo quân thứ năm hung hãn cuồng tín này là thành phần xung kích chủ lực làm phân tán tiềm năng dân tộc và là con bài chính yếu thực hiện thủ đoạn "chia để trị" của địch.


Bài học thấm thía nhất có lẽ là vụ quân Pháp chiếm 6 tỉnh Bắc kỳ cuối thế kỷ 19. Bối cảnh lịch sử thời đó là nước Pháp rất suy yếu do mới thất trận ở Mexico và bị quân Đức của Bismarck chiếm đóng. Trong điều kiện tồi tệ như vậy tại chính quốc, thế mà đoàn quân xâm lược của Pháp tại Việt Nam chỉ vỏn vẹn có một tàu chiến cũ với 17 tên lính thủy cũng chiếm được 6 tỉnh Bắc Việt một cách dễ dàng. Đó là vì bên cạnh cái đám quân ít ỏi của thực dân Pháp còn có một lực lượng Việt gian hùng hậu gồm mấy trăm ngàn người Công Giáo tự nguyện làm nội ứng cho địch. Bọn chúng đã bán rẻ lương tâm giết hại đồng bào, phản bội tổ quốc. khiến cho kẻ thù của tổ quốc Việt Nam bất chiến tự nhiên thành!


Tác hại nguy hiểm nhất của tà đạo Công Giáo La Mã là nó đã phá hư hoàn toàn cái não bộ của tập thể tín đồ, khiến cho mọi nhận thức của cổ chiên về các giá trị đạo đức đều bị đảo lộn đến mức làm mọi người phải ngạc nhiên. Đó là những nhận thức của họ về thiện và ác, thật và giả, văn minh và mọi rợ, yêu nước và bán nước v. v. . .


Trước hết, người Công Giáo đã ngộ nhận giáo hội của họ là thánh thiện, vì vậy họ đã gọi nó là Hội Thánh, trong khi chính nó là tên vô địch sát nhân trong lịch sử loài người. Cái đạo bất nhân man rợ như vậy chỉ có thể được gọi là "Đạo Thánh Đức Chúa Trời" bởi những kẻ tối dạ thất học mà thôi. Cái núi tội ác cao ngất trời xanh đó đã hùng hồn xác minh cái bản chất của Công Giáo La Mã là Phi Nhân Tính (Inhumanity). Ngày nay, xã hội Tây Phương đã nhìn nhận rằng Phi Nhân Tính đồng nghĩa với Mọi Rợ (Inhumanity means Barbarism). Triết gia Thomas Bailey Aldrich đã ví nền văn minh Ki Tô giáo là cái áo lông cừu che đậy sự mọi rợ của nó ( Civilization is the lamb’s skin in which barbarism masquerades - Ponkapog Papers 1903). Vậy người Công Giáo vin vào đâu mà dám nói cái đạo vô địch sát nhân là đạo thánh? Vin vào đâu mà dám nhục mạ các dân tộc Đông phương là mọi rợ ? Phải chăng Công Giáo là đạo duy nhất thích ăn thịt uống máu người (qua lễ ăn Bánh Thánh) nên được coi là đạo duy nhất thánh thiện và duy nhất văn minh ?


Suốt 50 năm (từ 904 đến 964), Giáo hội Công Giáo đã từng bị cai trị bởi hàng lô gái điếm trong vai trò làm vợ bé của các giáo hoàng. Lịch sử Âu Châu gọi thời kỳ này là "thời thống trị của những con điếm" (The rule of harlots). Năm 928, giáo hoàng Gioan X đã bị vợ là Theodora giết chết để đưa nhân tình của y thị lên thay lấy hiệu là Leo VI. Đúng một năm sau, giáo hoàng Leo VI bị vợ của cố giáo hoàng Sergius III là mụ điếm Marozia giết chết để đưa con ruột của thị lên kế vị lấy hiệu là Gioan XI. Năm 955, cháu nội của Marozia mới 18 tuổi lên ngôi giáo hoàng với tên hiệu là Gioan XII. Tên giáo hoàng này hoang dâm vô độ, y thường làm tình với gái điếm ngay ở tòa thánh Vatican.


Giáo hoàng Innocent III (1198- 1216) là một tên sát nhân vượt trên tất cả các bạo chúa thời trung cổ ở Âu Châu. Y chính là kẻ đã phát minh ra Tòa Án Dị Giáo (Inquisition) chuyên việc dựng lên những dàn hỏa thiêu sống cả chục triệu người bất đồng ý kiến với Vatican trong suốt năm thế kỷ.


Gần trọn thế kỷ 14, giáo đô Công Giáo bị dời về Avignon Pháp Quốc, tất cả các giáo hoàng đều bị phế lập hoàn toàn do ý thích của các vua Pháp chứ chẳng do một đoàn hồng y nào bầu lên cả ! Giáo hoàng nổi tiếng dâm loạn nhất trong thời kỳ này là Gioan XXIII (1410- 1415) hiếp dâm ba trăm nữ tu và có một cung viện (harem) chứa hai trăm cô gái. Y được giáo dân tặng cho biệt danh là "Quỷ Sa tăng nhập thể" (The Devil Incarnate). Sau 15 năm cai trị hội thánh, y bị truất phế và bị bôi tên ra khỏi danh sách các đấng đại diện Chúa Giêxu. Vì vậy, năm 1958 hồng y Angelo Giuseppe Roncalli được bầu làm giáo hoàng đã xử dụng lại danh hiệu Gioan XXIII như để gở gạc phần nào cái ô danh của giáo hoàng trước.


Tội lỗi xấu xa của các giáo hoàng La Mã kể ra không xiết, vậy mà người Công Giáo Việt Nam vẫn cứ nhắm mắt tôn xưng bọn giáo hoàng hung ác dâm loạn này là các Đức Thánh Cha, là các Đấng Đại Dịên của Chúa Giê-Xu tại trần thế và là các Đấng Thánh hằng được ơn Đức Chúa Thánh Thần soi sáng nên không thể sai lầm ! Những niềm tin quái gở như vậy chỉ có thể có nơi những người mất trí. Những người dân quê thất học tin vào những điều ngớ ngẩn ấy thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng trong thực tế ta thấy nhan nhản những kẻ mệnh danh là "trí thức Công Giáo" với bằng cấp và danh vị khoa bảng đầy mình mà cũng tin xằng bậy như vậy. Cho nên Tây Phương có câu: "Kẻ ngu có học ngu hơn kẻ ngu thất học".


Kẻ ngu thất học là đại đa số giáo dân Công Giáo. Nói lên điều này xin đừng vội kết án tôi cũng là người Công Gáo lại cố ý xử dụng từ ngữ hàm hồ bất xứng để nhục mạ cả một tập thể lớn trong cộng đồng dân tộc. Thực sự tôi chỉ là người chuyển ngữ ý kiến của những giới chức có thẩm quyền trong giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ nhận xét về giáo hội của họ mà thôi. Chẳng hạn như nữ học giả Joanne H. Meehl, trong cuốn sách nổi tiếng The Recovering Catholic (Người Công Giáo Tỉnh Ngộ) , đã viết : "Đạo Công Giáo chỉ thịnh hành và phát triển ở nơi những kẻ nghèo và ngu dốt " ( Catholicism only thrives and grows among the poor and ignorant). Hai vị tiến sĩ đương kim tu hành tại chức Andrew Greenly và Mary Durkin nhận xét về thực trạng giáo hội Công Giáo Mỹ trong thập niên 1960, lúc đó chưa có những cộng đồng di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ, rằng : "Nửa số giáo dân Công Giáo Mỹ là những di dân nghèo và thường xuyên thất học" (Half the American Catholics are poor and frequently uneducated - How to save the Catholic Church . p.11) .


Muốn cứu những người Công Giáo ra khỏi bóng tối tinh thần chỉ có một giải pháp nhân đạo nhất và hữu hiệu nhất là giáo dục họ. Nói cách khác là đem đến cho họ một ít vốn liếng của sự hiểu biết (understanding). Đất nước sở dĩ vẫn còn bị nhiễu loạn vì còn có nhiều người dân thiếu hiểu biết. Muốn thực hiện cuộc sống an bình trong xã hội điều cần thiết trước hết phải là nâng cao dân trí. Như Einstein đã nói: "Hòa bình chỉ có thể thực hiện bằng sự hiểu biết" (Peace can only be by understanding). Đây là một chân lý.


Kinh nghiệm lịch sử cho thấy không thể dùng bạo lực đàn áp, nhất là đối với tôn giáo, để duy trì hòa bình thật sự. Hòa bình thật sự chỉ có thể có được khi tuyệt đại đa số quần chúng hiểu rõ sự thật. Công Giáo La Mã thực sự không phải là một tôn giáo mà là một sản phẩm tội ác của những tên đại trí thức bất lương trong tổ chức Siêu Đại Bịp quốc tế. Chỉ có sự hiểu biết tận tường về bản chất dối trá vô cùng nham hiểm của Công Giáo La Mã mới có thể giải thoát những đồng bào bất hạnh chẳng may bị vướng vào cái thòng lọng của nó mà thôi. Nếu mọi nguời đều cố gắng tìm hiểu lịch sử và thực chất của Đạo Công Giáo thì tà đạo nguy hiểm này nhất định sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn trên Quê Hương Tổ Quốc chúng ta. Chỉ trong điều kiện này, dân tộc Việt nam mới có thể ngẩng mặt tiến lên cùng nhân loại trong Thiên Niên Kỷ Thứ Ba*.


Đó là những lời tâm huyết của tôi xin được kính gửi đến cùng toàn thể đồng bào trong cũng như ngoài nước và đó cũng là nội dung chính yếu của tất cả những bài tôi viết về Công Giáo La Mã trước đây cũng như hiện nay và sau nầy.


Kính mời quý vị đọc các phần kế tiếp của cuốn sách nầy với những bằng chứng cụ thể, để hiểu rõ thêm cái tôn giáo phi nhân bản: Công Giáo La Mã và các giáo phái Tin Lành nó
Về Đầu Trang Go down
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty25/8/2010, 19:32

Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác

Charlie Nguyễn


ABRAHAM: ÔNG TỔ CỦA CÁC ĐẠO CHÚA

Các đạo thờ Chúa gồm đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi đều có chung một ông tổ là Abraham. Abraham là người Do Thái, sinh trưởng tại thành phố Ur thuộc đế quốc Babylon, (hiện nay thuộc phía nam Iraq, gần giáp Kuwait) vào thế kỷ 20 trước công nguyên.

Theo các nhà khảo cổ thì, hiện tại vùng Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia) là vùng đồng bằng được cấu tạo bởi hai con sông lớn Tigris và Euphrate, giống người Sumerians đã lập nên một nền văn minh quan trọng của thế giới cổ. Họ là những người đầu tiên xây cất những thành phố lớn, thời cổ gọi là những quốc gia đô thị (city-states) như UR, ERECH, KISH, BABYLON vào khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Tại những thành phố này, người Sumerians đã phát minh ra chữ viết, bánh xe, kỹ thuật luyện kim, vườn treo, những tháp Babel (trong kinh thánh Do Thái) những điều luật thành văn, thơ văn và rất nhiều huyền thoại. Trong số những huyền thoại của Sumerians có chuyện vườn Địa Đàng của đạo Do Thái sau này (Garden of Eden).

Năm 2300 trước Công Nguyên, giống dân Semitic-Akkadians tức giống Do Thái-Ả Rập dưới sự lãnh đạo của vua Sargon đã chiếm toàn vùng Lưỡng Hà Châu. Hai nền văn hóa Semitic - Akkadian và Sumerians hòa đồng và phát triển trong 300 năm. Tới năm 2000 trước Công Nguyên, giống dân Armonites chinh phục các quốc gia đô thị trong vùng Lưỡng Hà Châu và lập nên đế quốc Babylon. Họ chọn đô thị Babylon làm thủ đô cho cả đế quốc. Babylon hiện nay là vùng sa mạc, cách Baghdad thủ đô Iraq khoảng 80 dặm về phía nam. Những người sống trong đế quốc Babylon tin tưởng thủ đô của họ là nơi linh thiêng, là cái cổng của thiên đàng. Babylon được xây dựng như hình ảnh của nước trời (an image of heaven). Mỗi một ngôi đền, mỗi một ngọn tháp hay một khu vườn treo (hanging gardens) là một bản sao của các lâu đài trên thiên đàng (a replica of celestial palace). Tại các đền thờ, các tu sĩ làm lễ và đọc sách Thánh Kinh mà họ gọi là Enuma Elish. Thánh kinh thường được viết dưới dạng thơ có nội dung ca tụng các vị thần đã chiến thắng sự hỗn mang trong vũ trụ (the victory of the gods over chaos). Trong số các vị thần đó có thần El mà tượng của "ngài" là một con bò đực mạ vàng (the gilded bull). Babylon là tiếng ghép lại từ hai chữ Bab và Ili, có nghĩa là Cái Cổng của Trời (Gate of God). "Tư tưởng cốt yếu của người Babylon là: không có vật gì tự nhiên mà có. Trước khi có thần thánh và con người, một vật tự hữu thiêng liêng đã có từ trước vô cùng" (There was no creation out of nothing. Before either the gods or human being existed, a substance which was itself devine had esixted from all eternity - A History of God p. 7). Đó là tư tưởng sơ khởi về một Thiên Chúa cho các đạo thuộc hệ thống Độc Thần Giáo sau này. Những quan niệm của người Babylon về thiên đàng, về thánh kinh, về đất thánh (Holy place) và về thần quyền (sacred power) là những yếu tố quan trọng làm nền móng cho cả 3 đạo Do Thái, Kitô và đạo Hồi.

Đế quốc Babylon được thành lập cách đây khoảng 4000 năm, nhưng trước đó có những thành phố khác trong đế quốc như thành phố Ur đã được xây cất từ năm 5500 TCN. Ur là một trong những thành phố cổ nhất thế giới vì tính tới nay thành phố này đã có 7500 tuổi! Thành phố Ur và toàn vùng Babylon đã bị hủy diệt do một trận lụt lớn gây ra vì sự đổi dòng của con sông Euphrate vào cuối thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, cả vùng này trở thành sa mạc vì thiếu nguồn nước. Các nhà khảo cổ gọi nền văn minh ở vùng này là "nền văn minh của dân Sumerian trước đế quốc Babylon" (the pre-Babylon Sumerian civilization). Chính tại thành phố Ur, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những dấu vết về nhân vật Abraham (thực sự là những huyền thoại nói về Abraham) ông tổ chung của đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Tại thành phố này, người Sumerians đã phát minh ra bánh xe, chữ viết, một giờ có 60 phút, vòng tròn có 360 độ. Thành phố này cũng đã phát sinh ra các bạo chúa (tyrans) và các cuộc tàn sát đẫm máu về tôn giáo. Nhiều bạo chúa tại thành phố này đã tự xưng là thần thánh từ trời xuống cai trị muôn dân bằng thần quyền (to rule by divine right). Dân Sumerians biết luyện kim để đúc lưỡi cầy khiến cho những cánh đồng của họ thêm màu mỡ và biết dẫn thủy nhập điền để tạo nên một nền nông nghiệp phồn thịnh. Tuy nhiên, họ cũng dùng luyện kim để đúc giáo mác và mũi tên đồng khiến cho những ruộng lúa xanh tươi của họ trở thành những cánh đồng máu (killing fields).

Giữa thế kỷ 19, các nhà khảo cổ Âu Châu đổ xô đến vùng Babylon khai quật tìm cổ vật. Họ đã mang về các nước Âu Châu không biết bao nhiêu di vật của nền văn minh rất lâu đời này: Những con bò đực mạ vàng (the gilded bulls), những phiến đá ghi chép các huyền thoại và các luật thời cổ. Có nhiều huyền thoại của dân Sumerians sau này đã đi vào kinh thánh của Do Thái. Các cổ vật tìm thấy ở Babylon đã mở toang cánh cửa bí mật của các đạo thờ Chúa* bằng những hiện vật cụ thể và các tài liệu lịch sử thành văn (written history). Các cổ vật này cũng là những tài liệu vô cùng quí giá cho nhiều ngành nghiên cứu khoa học. Năm 1917, nhân dịp quân Anh đánh chiếm Iraq, một đoàn khảo cổ người Anh do nhà khoa học Leonard Wooley dẫn đầu, đã đến phía nam Iraq, gần giáp Kowait, khai quật thành phố Ur chìm dưới lớp cát sa mạc. Giữa thập niên 60, nhiều đoàn khảo cứu khoa học của Mỹ đến vùng Babylon và Ur khai quật 25.000 địa điểm (identified sites) đã tìm thấy rất nhiều di vật của nền văn hóa cổ này. Họ đã giúp cho các nhà nghiên cứu hiểu thêm rất nhiều về nguồn gốc của các đạo thờ Chúa. Căn cứ vào các cổ vật và sử liệu khách quan, các nhà nghiên cứu đã xác định Babylon mới thực sự là nơi xuất phát đầu tiên của các đạo Thiên Chúa. Trước đó, mọi người đã lầm tưởng Jerusalem, thủ đô Do Thái, là thánh địa của các đạo này. Người Babylon quan niệm cuộc sống trên thế gian chỉ là tạm bợ, cuộc sống đời sau ở thiên đàng mới đích thực là hạnh phúc vĩnh cửu. Họ tin thế gian này sẽ bị tiêu hủy trong một lúc nào đó gọi là ngày tận thế. Sau ngày tận thế, nước trời sẽ được thiết lập ở thế gian. Hai ý niệm về thiên đàng và ngày tận thế luôn luôn quyện lại với nhau. Đó là những ý niệm xuyên suốt từ Babylon (Gate of God) qua Jerusalem và Vatican ngày nay.

Những tư tưởng đầu tiên của Abraham chưa hẳn là đã xác định có một Thiên Chúa Duy Nhất (The Only One God) mà ông ta chỉ có ý định chọn một vị thần mạnh nhất trong các vị thần của dân Sumerians để tôn thờ mà thôi. Vị thần mà Abraham chọn là thần El, một con bò đực mạ vàng. Hiện nay tại bào tàng viện Baghdad có trưng bày tượng bò đực mạ vàng của dân Sumerians thuộc thời đại đế quốc Babylon (3000 TCN). Khoảng năm 2000 TCN, Abraham được tôn lên làm vị lãnh đạo các tộc trưởng Do Thái trong đế quốc Babylon (the leader of all patriachs of Jews). Abraham dẫn dân Do Thái rời khỏi đế quốc Babylon về miền Đất Hứa là vùng Canaan, hiện nay được gọi là West Bank (tả ngạn phía Tây sông Jordan). Tại đây, Abraham đã kết hợp với các bộ lạc Do Thái khác với ý định thành lập một quốc gia cho các dân tộc Do Thái. Ông có nhiều vợ. Dân tộc Do Thái rất tự hào tự xưng là con cháu của Abraham (the children of Abraham) nhưng thuộc dòng Isaac, con trai của Abraham và bà vợ cả của Abraham là Sarah.

Các dân tộc Hồi Giáo Ả Rập cũng tự xưng là con cháu của Abraham, nhưng thuộc dòng Ismael, con trai của Abraham và bà vợ bé tên là Hagar. Sau khi sinh Isaac (có nghĩa là Tiếng Cuời) bà vợ cả Sarah thường hay ghen tương với bà vợ bé nên đã đòi Abraham phải ruồng bỏ Hagar và Ismael. Abraham cầu xin Chúa cho Ismael thì được Chúa hứa sẽ cho Ismael trở thành tổ phụ của một đại quốc gia sau này. Sau đó, Abraham đưa bà Hagar và con trai Ismael đến thung lũng Mecca. Tại đây có con suối thiêng Zamzam, hai mẹ con của Ismael được Thiên Chúa đích thân chăm sóc. Abraham thường hay đến thăm Ismel và hai cha con cùng xây nên đền Kabah là ngôi đền thờ Thiên Chúa đầu tiên trên thế giới. Ismael trở thành tổ phụ của các dân tộc Ả Rập. ( A History of God. p.154).

Những người theo đạo Kitô gốc Âu Mỹ hay Á Châu không có liên hệ huyết thống gì với Abraham, nhưng vì đạo Kitô cũng như đạo Hồi đều thoát thai từ đạo Do Thái nên những người theo đạo Kitô cũng coi Abraham như một vị thánh tổ phụ (Father). Trong sách kinh Nhựt Khóa của Tổng-giáo-phận Sài Gòn (trang 143-146) có "Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt Nam Đặng Trở Lại Đạo Thánh" có đoạn như sau: "Lạy Chúa, thuở Chúa mới giáng sanh, Chúa đã kêu gọi ba vua phương Đông đến thờ lạy chúa. Chúa đã phán rằng: Ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi Đông Tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên nước thiên đàng. Nay nước Việt Nam cũng là một cõi Đông Phương đang còn nhiều kẻ tin vơ thờ quấy, chưa hề biết Đấng Chí Tôn. Xin Chúa hãy làm cho nó tìm đến cùng Chúa hầu ngày sau đặng nghỉ ngơi trên nước thiên đàng, chúc tụng không khen Chúa đời đời kiếp kiếp".

Đối với đạo Hồi, Abraham là tiên tri thứ nhất, Moses là tiên tri thứ hai, kế đến là nhiều tiên tri Do Thái khác rồi mới đến Jesus. Mahomét (Ma-hô-mét) là tiên tri cuối cùng và lớn hơn hết của Thiên Chúa (The last and greatest prophet of God). Người Hồi Giáo không coi Jesus hay Mahomét là Thiên Chúa Hiện Thân (God Incarnate) mà chỉ coi những vị này là những con người bằng xương bằng thịt như chúng ta. Tuy nhiên họ tôn kính Mahomét là một vị đại thánh mà không một ai trên thế gian có thể sánh ngang với ngài về sự hiểu biết và quyền năng. Không một ai được Thiên Chúa mặc khải một cách hoàn hảo cho bằng Mahomét! (None is his equal either in knowledge or in authority. None has received or handed down so perfect a relevation).

Khác với Jesus, Mahomét không khoe khoang khoác lác mạo nhận là con Một (The Only Son Of God) hay con thứ củaThiên Chúa, không làm phép lạ để biểu diễn khả năng phù thủy bịp bợm, không lập ra các phép bí tích nhảm nhí và cũng không truyền chức cho ai độc quyền cai trị giáo hội và thế giới. Jesus dốt đặc cán mai nên không viết một chữ nào để lại cho hậu thế. Các lời Jesus nói đều do người khác gán cho. Mahomét là một thi sĩ đã viết kinh Coran trong 23 năm dưới dạng thi ca như David thuở xưa viết Psalm (Thánh Vịnh) ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng ông ta khôn khéo không nhận mình là tác giả mà chỉ nhận mình là anh thư ký ghi chép lại các lời của Thiên Chúa do thiên thần Gabriel (Ga-bơ-ri-en) đọc cho ông ta viết mà thôi.

Trong kinh Coran, có đoạn Mahomét viết về thiên thần Gabriel như sau: "Khi tôi đang trên đường lên núi thì bỗng nghe có tiếng nói từ trời xuống " Ôi Mahomet, con là vị tông đồ của Chúa, ta là Gabriel đây". Tôi ngẩng đầu lên để xem ai đang nói. Tôi thấy Gabriel là một người đàn ông với những bàn chân chắn ngang chân trời" (When I was midway on the mountain, I heard a voice from heaven saying : "Oh! Muhammad ! You are the Apostle of God and I am Gabriel". I raised my head toward heaven to see who was speaking and Gabriel in the form of a man with feet astride the horizon - A History of God p. 138) Trong niềm tin của đạo Hồi thì thiên thần Gabriel là Thánh Linh Thiên Chúa (The Spirit of God) mà Ki Tô Giáo gọi là Đức Chúa Thánh Thần (The Holy Spirit). Đạo Hồi là Đạo Thiên Chúa đúng nghĩa vì họ tin Thiên Chúa là Đấng chỉ có Một Ngôi Duy Nhất (The God of Islam is Unity God). Trái lại Ki Tô Giáo là đa thần giáo trá hình vì Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là Thiên Chúa Ba Ngôi (The Christian God is Trinity God).

Về Abraham, trong Kinh Coran Mahomét viết như sau: "Thiên thần Gabriel nâng tôi lên cao trong không khí. Trước hết ngài đưa tôi đến viếng Jerusalem, sau đó ngài đưa tôi qua 6 tầng trời. Đến tầng trời thứ 7 tôi gặp Adam tổ phụ loài người, thánh Gioan Baotixita (giáo chủ Essenes kiêm thầy dạy giáo lý cho Jesus) Enoch, Aaron, Moises, Jesus và Abraham. Cuối cùng tôi được gặp Thiên Chúa (God / Allah) và nói chuyện trực tiếp với Ngài. Chúa phán "Ôi Mohamét! Ta đón tiếp con như một người bạn cũng như trước đây ta đã đón tiếp Abraham như một người bạn vậy. Ta nói chuyện với con mặt đối mặt cũng như trước đây ta nói chuyện mặt đối mặt với Moises vậy." (Oh Muhammad! I take you as a friend, just as I took Abraham as a friend. I am speaking to you, just as I spoke face to face with Moises).

Tiếng Ả Rập KORAN có nghĩa là sự kể chuyện (Recitation). Những người Hồi Giáo coi kinh KORAN là những lời cuối cùng của Thiên Chúa dành cho loài người (Koran is the final words of God to mankind), là cuốn sách MẸ của mọi cuốn sách (The Mother of Books). Cũng như các đạo thờ Chúa khác, người Hồi Giáo tin Kinh Thánh của họ là chân lý tuyệt đối. Các kinh thánh ngoài đạo của họ đều là đồ giả mạo cần phải hủy diệt bằng bạo lực. Cũng như các tòa án dị giáo của Công Giáo La Mã chủ trương giết hết, đốt hết, phá hết tất cả những gì khác với giáo lý Công Giáo vậy.



Về Đầu Trang Go down
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty25/8/2010, 19:33

Độc Thần Giáo, tức các đạo thờ Chúa (Monotheist religions /Abrahamic religions) bành trướng thế lực tôn giáo bằng chiến tranh máu lửa. Số tín đồ tăng lên theo nhịp độ phát triển của các chủ nghĩa đế quốc và thực dân cũ mới. Trải qua nhiều thế kỷ, ngày nay tổng số tín đồ của Độc Thần Giáo đã lên tới 3 tỷ 200 triệu trên tổng dân số nhân loại là 5 tỷ 804 triệu (The World Almanach and Books of Facts 1998). Hai tôn giáo lớn nhất của hệ thống Độc Thần Giáo hiện nay là Công Giáo La Mã với gần 1 tỷ tín đồ, kế đến là giáo phái Hồi Giáo Sunny với 936 triệu tín đồ. Các con số tín đồ đông đảo không nói lên giá trị của các tôn giáo này vì họ là những khối người khổng lồ luôn luôn dốc phần lớn sinh lực của họ để tìm cách tiêu diệt lẫn nhau và phá hoại hòa bình thế giới. Năm 383, triều đại con cháu của Constantine đã đổi tên Kitô Giáo thành Công Giáo (Cattolica) có nghĩa là tôn giáo toàn cầu (universal church). Danh từ "Công Giáo" nói lên ý đồ nham hiểm thâm độc của Đế quốc La Mã nhắm tới sự nô lệ hóa toàn cầu dưới chiêu bài tôn giáo. Vì vậy nếu hiểu Công Giáo chỉ đơn giản là quốc giáo "state religion" hoặc đạo công cộng "public religion" là chưa đánh giá đúng mức tim đen của đế quốc. Những danh từ phiên âm như đạo Gia tô hay đạo Ca Tô Rô Ma đều làm chúng ta quên đi ý đồ nham hiểm của đạo Công Giáo Vatican.

Với thời gian, do sự mâu thuẫn trong việc giải thích Kinh Thánh và tranh chấp quyền lợi vật chất giữa các giới lãnh đạo chóp bu, đạo Công Giáo đã bị phân hóa thành nhiều ngành (lines) :

1. Công Giáo La Mã còn được gọi là Giáo hội Tây Phương (Roman Catholics / Western Church) hiện có 981 triệu tín đồ (the main line of Christianity)

2. Công Giáo Đông Phương (Eastern Church) là Chính Thống Giáo (Greek Catholics or Orthodox) chính thức tách rời khỏi Công Giáo La Mã vào năm 876. Số tín đồ hiện nay khoảng 218 triệu, đa số tại nước Nga, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Đông Âu (Bulgary, Serbia, Armenia)

3. Công Giáo Anh còn được gọi là Anh Giáo (British Catholics or Anglicanism) có khoảng 69 triệu tín đồ tại Anh, Úc, Tân Tây Lan, Canada và Mỹ. Chính thức tách rời khỏi Công Giáo La Mã năm 1539.

4. Các giáo phái Tin Lành : Danh xưng chính thức của Tín Đồ Tin Lành là "Những Kẻ Chống Công Giáo La Mã" (Protestants). Đạo Tin Lành là "Đạo Chống Công Giáo La Mã" (Protestantism). Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới chẳng giống ai gọi họ là Tin Lành (Good News), nhưng thực tế chẳng có gì lành. Khoảng đầu thế kỷ 20, nhiều người Công Giáo Việt Nam gọi họ là những kẻ theo "Đạo Thệ Phản". Sau này không thấy ai xử dụng danh từ "Đạo Thệ Phản" nữa, có lẽ vì danh từ này mang tính kỳ thị tôn giáo ( ? + ! . . . ).

Công Giáo La Mã, Chính Thống Giáo và Anh Giáo có thể được gọi chung là Công Giáo (Catholicism) vì các lý do sau đây:

1. Giáo lý của 3 tôn giáo này rất tương đồng

2. Cả 3 tôn giáo đều thờ ảnh tượng Chúa và các thánh. Bước chân vào giáo đường của 3 tôn giáo này ta rất khó phân biệt. Khác hẳn với các giáo phái "Tin Lành" tuyệt đối không thờ ảnh tượng. Họ chỉ xử dụng cây thánh giá trơn (không có tượng Chúa) làm biểu tượng mà thôi.

3. Cả 3 đạo Công Giáo này đều thờ Bà Maria và tin bà còn đồng trinh (virgin) sau khi sinh Chúa Jesus. Người theo đạo Tinh Lành tin Chúa Jesus là Thiên Chúa hóa thân nhưng không tin bà Maria đồng trinh vì ngoài Chúa ra, bà Maria còn sinh 3 trai và 3 gái với ông Joseph. Người Hồi Giáo cũng tin bà Maria đồng trinh nhưng phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Jesus, họ chỉ coi Jesus là tiên tri đứng sau tiên tri Mahomét.

4. Ba đạo Công Giáo nói trên đều có giáo đô riêng. Công Giáo La Mã có giáo đô tại Vatican (một lãnh địa tự trị tách ra khỏi thủ đô La Mã của nước Ý). Giáo đô của Chính Thống Giáo đặt tại Constantinophe (nay là Istambul, Thổ Nhĩ Kỳ). Giáo đô Anh Giáo đặt tại Canterburry Anh quốc. Các giáo phái Tin Lành không có giáo đô.

5. Các đạo Công Giáo có hàng giáo phẩm được truyền chức để làm lễ (mass) biến bánh và rượu thành máu và thịt của Chúa Jesus. Hàng giáo phẩm Công Giáo La Mã và Công Giáo Hy Lạp (Chính Thống Giáo) đều là nam giới. Riêng Công Giáo Anh có nữ linh mục, cũng làm lễ như nam linh mục và có chồng con. Con số nữ linh mục Anh Giáo tại Anh, Úc, Canada và Mỹ hiện nay lên tới khoảng 2000 người.

Tất cả các người theo đạo Kitô (Christians) không thuộc 3 giáo hội Công Giáo nói trên đều được gọi chung là Tin Lành (protestants). Số tín đồ Tin Lành hiện nay lên tới 686 triệu. Các mục sư không làm lễ, chỉ giảng thánh kinh mà thôi.

Trong những thế kỷ trước, người Việt Nam gọi đạo Công Giáo La Mã là Đạo Da-Tô hay Gia Tô. Da-Tô là tiếng chữ Hán phiên âm chữ Jesus. Đạo Da-Tô có nghĩa là đạo thờ Jesus. Trong Kinh Cảm Tạ Cầu Hồn viết bằng Hán tự mà các giáo dân Bùi Chu Phát Diệm và Thái Bình ngày nay vẫn còn đọc trong các đám giỗ, có câu: "Thần Chúa Da-Tô thục tội thi ân chỉ đại" nghĩa là "Lạy Chúa Jê-Su chuộc tội và ban ơn rất lớn".


III. ĐẠO HỒI

Đạo Hồi là đạo thứ ba trong hệ thống Nhất Thần Giáo. Thiên Chúa của đạo Hồi là Thiên Chúa của đạo Do Thái và đạo Kitô. Người Hồi Giáo cũng giống như Do Thái Giáo, phủ nhận ngôi thứ hai tức Jesus và ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần của đạo Kitô nên Thiên Chúa của Hồi Giáo và Do Thái Giáo là Thiên Chúa Duy Nhất (Unity God). Đạo Hồi chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo lý của đạo Do Thái và đạo Kitô, do Mohammed sáng lập vào thế kỷ thứ 7. Đạo Hồi được truyền bá và phát triển phần lớn dựa vào bạo lực và chiến tranh. Đạo Công Giáo La Mã là một đế quốc tinh thần, luôn luôn bước song hành với các chủ nghĩa thực dân đế quốc. Đạo Hồi và Công Giáo La Mã là hai kẻ thù lớn nhất của hòa bình thế giới. Cả hai đạo này đều là con đẻ của Do Thái nhưng đều đã quay ngược lại tiêu diệt Do Thái đến gần tuyệt chủng. Hai đạo này được ví như hai cái boomeranges của Do Thái vậy!

Số tín đồ đạo Hồi hiện nay là 1 tỷ 128 triệu, đứng thứ nhì sau đạo Kitô (1 tỷ 955 triệu). Công Giáo La Mã là giáo phái có đông tín đồ nhất của đạo Kitô, Nó là con đẻ của chủ nghĩa đế quốc La Mã và cả chủ nghĩa thực dân cũ mới của Âu Châu. Ngày nay, các chủ nghĩa đế quốc và thực dân đã suy tàn, đạo Công Giáo tất nhiên phải gánh chịu những hệ lụy của các chủ nghĩa thực dân đế quốc mà suy tàn theo. Đó là một thực tế của tiến trình tiến hóa tất yếu của lịch sử.

Nói tóm lại, Thiên Chúa Giáo là một hệ thống gồm 3 tôn giáo chính yếu: Do Thái Giáo, Kitô Giáo* và Hồi Giáo. Cả 3 tôn giáo này đều bắt nguồn từ đạo Do Thái Nguyên Thủy (Pre-Mosaic Judaism) của các tổ phụ lập quốc Do thái là Abraham, Isaac và Jacob. Đạo Do Thái Nguyên Thủy thờ Thiên Chúa mang tên Elohim với hình tượng của ngài là con bò vàng. Đạo thờ bò đã tồn tại trong hơn 8 thế kỷ đầu của lịch sử nước Do Thái. Các đạo thờ Thiên Chúa hiện nay chỉ là hậu thân cỉa đạo Do Thái Nguyên Thủy. Nói dúng hơn, những đạo này chỉ là những biến dạng khác nhau của đạo thờ bò.



--------------------------------------------------------------------------------
Về Đầu Trang Go down
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty25/8/2010, 19:34

Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác

Charlie Nguyễn


NHỮNG CHUYỆN BÍ MẬT Ở NÚI SỌ (The Secrets of Golgotha)


Tiếng Do Thái "Golgotha" có nghĩa là Sọ Người (Skull). Tại vùng ngoại ô phía tây bắc Jerusalem có một ngọn đồi cao 11 mét, trông xa giống như cái sọ người nên từ xa xưa người Do Thái đã đặt tên cho nó là "Đồi Sọ" (Golgotha Hill). Nhưng từ khi đế quốc La Mã thống trị chọn ngọn đồi này làm nơi hành hình các tử tội, phần đa số là những người yêu nước chống đế quốc, nên dân thành Jerusalem gọi ngọn đồi ấy là Núi Sọ Người (Mount of Golgotha).

Chính tại nơi đây, Jesus và hai người khác đã bị lính La Mã xử tử bằng cách đóng đinh vào thập giá. Ngọn đồi Golgotha đã trở thành thánh địa trong trái tim của các tín đồ Kitô Giáo trên khắp thế giới. Tuy nhiên, họ chỉ biết chuyện Chúa chết theo sự mô tả với đầy dẫy những điều xuyên tạc bóp méo lịch sử của những kẻ chủ mưu lập đạo Ki Tô qua các sách phúc âm mà thôi. Còn chuyện gì thật sự đã xảy ra cho Chúa, chúng ta cần phải đợi sự xác minh của các sử liệu và các bằng chứng có giá trị khách quan sau khi đã được kiểm chứng bởi các chuyên gia khả tín của các ngành khoa học hiện đại.

Năm 1994, hai học gia Đức là Holger Kersten và Elma R. Gruber đã cho xuất bản tác phẩm để đời : The Jesus Conspiracy - The Turin Shroud & The Truth about the Resurrection (337 trang, Element Co. Hoa Kỳ in lại hai lần trong cùng năm 1994), làm chấn động dư luận quốc tế. Đề tựa của cuốn sách khá dài vì nó đề cập tới bốn vấn đề chủ yếu của nội dung sách này:

1. Tất cả những câu chuyện của Thánh kinh nói về cái chết của Jesus để "chuộc tội cứu thế" chỉ là một Âm Mưu Xảo Trá của Jesus (The Jesus Conspiracy).

2. Tất cả các thánh tích (relics) mà Vatican nói là đồ thật hầu rao bán từ xưa đến nay để hốt bạc, thực sự tất cả chỉ là đồ giả, không có một cái nào là thật cả.Trái lại, thánh tích có một không hai của toàn bộ hệ thống Ki Tô Giáo là tấm khăn liệm xác Jesus hiện lưu trữ tại nhà thờ lớn thành phố Turin (Ý) là di vật duy nhất thật của chính Jesus ( The Turin Shroud).

3. Cuộc giảo nghịệm của giới khoa học quốc tế vào tháng 10 - 1978 tại Turin đã xác nhận tấm vải liệm ở Turin là thật. Những chứng tích của sự thật còn in dấu vết trên tấm vải liệm đó đã tố cáo âm mưu bịp bợm của những kẻ lập đạo Ki Tô. Các nhà khoa học đã chứng minh: khi "được liệm xác" Jesus vẫn còn sống chứ không chết. Jesus đã thoát chết là nhờ có rất nhiều tín đồ tay trong bí mật cứu giúp từ trước đến sau vụ đóng đinh. Thậm chí viên sĩ quan La Mã, trưởng toán hành hình Jesus, cũng là một tín đồ bí mật nên y đã không đập gẫy chân Jesus. Sau đó, Jesus đã được các tu sĩ đồng đạo thuộc giáo phái Essenes của giáo chủ Jean Baptist (sư phụ của Jesus) dùng khối lượng 100 pounds dược thảo để cứu sống Jesus thành công. Vậy Jesus đã chẳng những "không chết để chuộc tội thiên hạ" và cũng chẳng bao giờ là "Đấng từ kẻ chết sống lại hiển vinh". Ngài thực sự chỉ là "Đấng Đại Bịp Quốc Tế"đáng nguyền rủa chứ không thể tôn thờ !

Di vật thứ thiệt của Jesus là tấm vải liệm ở Turin và kết quả giảo nghịêm quốc tế tháng 10 - 1978 là hố chôn toàn hệ thống Ki Tô Giáo (gồm Công Giáo La Mã, Chính Thống Giáo, Anh Giáo và tất cả các giáo phái Tin Lành). Đó cũng là tất cả sự thật về cái gọi là sự Phục Sinh của Chúa Kitô (The Truth of the Resurrection of Christ).

4. Vì thấy kết quả cuộc giảo nghiệm quốc tế gây nguy hại cho sự tồn vong của Công Giáo La Mã nên Tòa thánh Vatican đã đơn phương ngụy tạo một cuộc giảo nghiệm khác bằng thử nghiệm radiocarbon tests nhằm đánh lạc sự chú ý của thế giới về những kết quả xác đáng của giới khoa học quốc tế đã được công bố trước đây về những bí mật của Tấm Vải Liệm xác Jesus hiện lưu trữ tại Turin.

Nguyên bản tác phẩm này được viết bằng tiếng Đức và được chính các tác giả chuyển ngữ sang tiếng Anh vì cả hai đều tốt nghiệp Đại Học ở Đức và Hoa Kỳ. Nguyên bản Đức Ngữ đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, riêng bản Anh ngữ của hai tác giả này đã được dịch ra 7 thứ tiếng khác cũng trong năm 1994. Từ đó đến nay, có thể tác phẩm này đã được tái bản và dịch thêm ra nhiều ngoại ngữ khác nữa.

Sau trên 10 năm nghiên cứu lịch sử và tiếp xúc với rất nhiều nhà khoa học đã từng tham dự vào các cuộc điều tra khoa học và giảo nghiệm liên quan đến các chứng tích lịch sử Kitô Giáo, các tác giả mới có đủ các dữ kiện hoàn thành tác phẩm độc đáo này. Bài viết của Elma. R. Gruber trong tác phẩm The Jesus Conspiracy mang tựa đề "Những chuyện bí mật ở Núi Sọ Người" (The Secrets of Golgotha) đã tố cáo trước dư luận quốc tế rất nhiều bằng cớ về những âm mưu bí hiểm chung quanh cái chết của Jesus như sau:

Khoảng cuối thập niên 20 đầu Công nguyên, Jesus 33 tuổi, nguyên là thợ mộc ở Galilee, đã bị quan toàn quyền La Mã Pilate kết án tử hình về một tội phạm chính trị: "Âm mưu gây bạo loạn chống chính quyền". (Ghi chú: Tên thật của Pilate theo tiếng La Tinh là PONTIUS PILATUS). Nguyên nhân vì trong dịp cả nước Do Thái kỷ niệm đại lễ Vượt Qua (Passover) dân chúng tứ phương đổ về Jerusalem rất đông. Để đề phòng một cuộc bạo loạn chính trị có thể xảy ra trong dịp có quá đông dân chúng hỗn tạp tập trung tại Jerusalem, quan toàn quyên Pilate đã điều động nhiều đơn vị quân đội từ nhiều nơi về bố trí tăng cường bảo vệ an ninh cho thủ đô Do Thái trong dịp đại lễ này.Việc du kích và nhân dân Do Thái lợi dụng cơ hội này nổi loạn chống chính quyền là điều rất dễ xảy ra trong hoàn cảnh tình thế rất hỗn tạp này. Chính vì chuẩn bị đối phó với mọi bất trắc có thể xảy ra nên Pilate đã điều động nhiều đơn vị quân đội từ nhiều nơi về Jerusalem để tăng cường bảo vệ an ninh.

Cũng trong dịp đại lễ Passover này, Jesus đã ngang nhiên phá rối trật tự an ninh tại trung tâm của buổi lễ là Đền Thánh Jerusalem của giáo phái thù địch là Phrisees. Bởi lẽ Jesus là đệ tử của Jean Baptist, giáo chủ giáo phái Essenes, vốn rất căm ghét giáo phái Pharisees từ lâu nên đã nhân dịp này xâm nhập Đền Thánh la lối phá phách, đánh đuổi những người bán lễ vật cho khách hành hương tham quan Đền Thánh hoặc đổi tiền cho những khách ngoại quốc về dự lễ.

Trong tác phẩm "The Historical Jesus", linh mục John Dominic Crossan đã viết : " Những gì đã xảy ra cho Jesus cũng là những điều đã xảy ra trước đó cho John. Đó là hình phạt tử hình mang tính chất chính trị và tôn giáo. Chỉ một hành vi phá phách Đền Thánh như vậy, nhất là trong dịp đại lễ quốc khánh trong tình hình dễ xảy ra bạo loạn này, đã hoan toàn hội đủ yếu tố đưa đến hình phạt bị đóng đinh trên thập giá vì lý do hỗn hợp tôn giáo chính trị. (What would happen to Jesus was probably as predictable as what had happened already to John. It seems clear that Jesus confronted with The Temple 's rich magnificence . Such an act, if performed in the volatile atmosphere of Passover, a feast that celebrated Jewish liberation from inaugural imperial oppression, would have been quite enough to entail crucification by religiopolitical agreement. - The Historical Jesus, p. XII)

Toán lính La Mã thi hành bản án tử hình Jesus, do Đại Úy Longinus cầm đầu, đã dẫn Jesus lên đồi Golgotha xử tử bằng cách đóng đinh Jesus vào thập giá cùng với hai tử tội khác. Lúc đó là buổi chiều ngày thứ sáu. Ngày hôm sau là ngày Đại Lễ Vượt Qua (Passover) kỷ niệm Thánh Moses đã dẫn dân tộc Do Thái vượt qua Hồng Hải trốn thoát ách nô lệ Ai Cập trong nhiều thế kỷ trước. Lễ này luôn luôn nhằm vào ngày rằm vì người Do Thái thời đó xử dụng Âm Lịch. Kỳ lễ năm ấy lại trùng vào ngày thứ bảy (Sabbath). Theo tục lệ Do Thái thì mọi tử tội đều phải được chôn cất trước ngày Sabbath. Đạo Do Thái là đạo của Luật (The Religion of Law) vì thế, nói đến luật, mọi người sẽ hiểu là luật của đạo Do Thái. Luật đạo Do Thái dạy rằng: "Không được để ánh sáng mặt trời chiếu trên xác tử tội vào ngày Sabbath". Do đó thân xác của tử tội Jesus sẽ được tháo xuống trong buổi chiều trước ngày Sabbath theo đúng với luật lệ tôn giáo của Do Thái.

Jesus có hai người bạn thân là Joseph Arimathea và Nicodemus, cả hai đều rất giàu và có quyền thế vì họ đều có chân trong Hội Đồng Tối Cao Do Thái (Sanherin). Hội đồng này có 70 nghị viên là đại diện cho đạo Do Thái, đồng thời cũng là cơ quan chính quyền bản xứ do La Mã lập ra để phụ trách trông coi việc thi hành các luật pháp và tục lệ của xứ thuộc địa này.

Joseph và Nicodemus, với tư cách là những nghị viên Viện Sanherin Do Thái đã có dịp tiếp xúc và quen thân với Pilate. Do đó, cả hai người được biết chính quyền La Mã đã quyết định tìm bắt và xử tử Jesus vì lý do những hoạt động gây bạo loạn vừa xúc phạm Đạo Do Thái vừa gây nguy hại đến an ninh và công cuộc trị an của La Mã.

Mặc dầu đã biết trước mọi việc sẽ xảy ra cho Jesus nhưng Joseph và Nicodemus tự biết không thể cứu Jesus thoát khỏi án tử hình, do đó Joseph và Nicodemus tìm cách hối lộ và thuyết phục Pilate cho phép họ được tháo xác Jesus xuống khỏi thập giá càng sớm càng tốt để kịp thời cứu sống ngài.

Đây là một biệt lệ vì luật pháp La Mã tuyệt đối cấm thân nhân mang xác tử tội về nhà chôn, các xác tử tội đều bị vứt vào hang hoặc bãi hoang cho kên kên, thú dữ hoặc chó hoang ăn thịt. May mắn thay, đề nghị của Joseph và Nicodemus đã được Pilate chấp thuận. Joseph liền bỏ tiền mua một khu vườn có cây cối rập rạp nằm sát chân đồi GolGotha và xây tại đây một ngôi mộ lớn có nhiều phòng.

Nicodemus mua một số thuốc cứu thương rất lớn. Phúc âm của John cho biết: "Nicodemus đến với Chúa vào ban đêm, mang theo dầu Myrrh và Aloe nặng 100 stones" (John 19:30). Stone là đơn vị đo lường của Do Thái thời đó, mỗi stone tương đương với một pound.


Aloe là chất thuốc có khả năng gây mê (coma) tẩy uế đờm dãi, tống khứ chất độc trong người và làm các vết thương mau lành.

Khi Jesus bị treo lên thập giá, Ngài kêu khát nước, sĩ quan chỉ huy toán hành hình đã lấy miếng bọt biển, (sponge) thấm "dấm" rồi lấy cây giáo đưa miếng bọt biển đó lên miệng Jesus để Ngài uống giải khát. Viên sĩ quan đó là thuộc hạ thân tín của Pilate nhưng đồng thời cũng là một tín đồ bí mật của Chúa. Phúc âm của Mark ghi rõ (15: 39, 27: 54): "Viên sĩ quan này là người đã từng ngợi khen Chúa là con Đức Chúa Trời". Và "Sau khi uống dấm xong, Chúa phán "Công việc đã hoàn thành" rồi Ngài cúi đầu xuống và trút linh hồn".

Thánh kinh nói chất nước Jesus uống lúc còn bị treo trên thập giá là dấm, nhưng có phải là dấm thật không? Tại sao vừa uống dấm xong thì Ngài chết liền? Căn cứ vào những chất thuốc mà Nicodemus đã mang đến núi Sọ là dầu myrrh và aloe, người ta có thể suy đoán nước dấm Jesus uống có pha hai chất thuốc này để gây mê. Các nhà khoa học phân chất aloe đã tìm thấy chất phenol có tác dụng gây mê (coma). Dầu myrrh được lấy từ cây commiphora đã được người Hy Lạp xử dụng từ lâu để trị vết thương và tẩy uế (sát trùng). Ông tổ y khoa Tây phương là Hippocrate đã ca ngợi dầu myrrh là một thần dược, chẳng những chữa trị vết thương mau lành mà còn ngăn ngừa được các bệnh dịch. Ngoài ra, ở Palestine vào thời đó, người ta đã biết xử dụng thuốc phiện để làm thuốc giảm đau.

Do đó, chất dấm mà viên sĩ quan "tín đồ bí mật của Chúa" đã cho Ngài uống có thể là một chất tổng hợp các thứ thuốc nói trên khiến cho Ngài vừa mới uống xong thì bất tỉnh liền. Cũng người sĩ quan đó lấy cây giáo "quệt sơ" vào cạnh sườn của Chúa để cho những tên lính La Mã khác thấy Chúa không giật mình cựa quậy nên tưởng Ngài đã chết rồi và tha cho Ngài cái cực hình bị đập gẫy hai chân. Vì đã được phép của Pilate, Joseph và Nicodemus vội vàng tháo xác Jesus xuống và đưa ngay vào nhà mồ kín đáo trong khu vườn của Joseph ở ngay sát chân đồi.

Tại nhà mồ này, Josep và Nicodemus đã để sẵn một phiến đá dài bằng phẳng dùng làm ghế nằm, trên đó trải sẵn một tấm vải trắng thuộc loại đắt tiền, dài 4m36, rộng 1m10. Vì tấm vải rất dài nên chỉ cần một nửa tấm vải cũng đủ phủ lên mặt ghế đá. Nicodemus cẩn thận rắc các thứ thuốc và dầu myrrh lên tấm vải trước khi đặt xác của Jesus lên đó. Toàn thân của Jesus lúc ấy bê bết máu đã in lên tấm vải trắng những vết roi trên lưng, mông, đùi và chân. Cũng nhờ những dấu máu trên tấm vải này, người ta đã đo được chiều dài của Jesus từ đầu xuống gót chân là 1 mét 82 và ước lượng ngài nặng 79 kilô.

Phân nửa tấm vải còn lại đã được Joseph và Nicodemus trùm qua đầu, qua ngực, xuống tới chân của Chúa. Lúc ấy, hai tay của Chúa được để vắt chéo lên bụng. Cái mão gai trên đầu của Ngài vừa mới được tháo ra đã tạo nên những dòng máu tươi chảy tràn lên trán làm ướt hết khuôn mặt của Ngài. Máu của Ngài pha lẫn với các thứ dầu thuốc đã được thoa khắp cơ thể tạo thành một hỗn hợp màu nâu. Hỗn hợp màu nâu này đã in lên tấm vải phủ phía trên thân xác Ngài hình ảnh khuôn mặt với những vết gai đâm trên trán, hai ống chân còn nguyên (không bị đập gẫy) với hai lỗ đinh trên hai bàn chân và hai cánh tay vắt chéo với hai lỗ đinh trên hai bàn tay.

Lúc ấy là đêm thứ sáu, hôm sau là lễ Vượt Qua. Toàn dân thành Jerusalem lo mừng cuộc lễ nên chẳng có ai để ý đến kẻ tử tội bị đóng đinh chiều qua. Người tử tội được bạn bè tận tình cứu giúp đã từ từ hồi tỉnh sau cơn mê vài giờ. Vả lại, chất thuốc mê đến lúc đó cũng đã hết tác dụng vì Ngài đã được uống thuốc xổ.

Đêm đó lại là đêm trăng rằm, Nicodemus và Jopseph được sự trợ giúp của các "thiên thần áo trắng", đã di chuyển Jesus tới một nơi an toàn và bí mật hơn để tiếp tục chữa trị. Do sự khám phá ra những cuộn sách cổ ở Vùng Biển Chết (The Dead Sea Scrolls), người ta mới biết các "thiên thần áo trắng" là các tu sĩ thuộc giáo phái Essenes của John the Baptist. Mọi tu sĩ của giáo phái này đều mặc áo dài trắng (white long tunic) và đều biết chữa bệnh. Họ đi lang thang khắp nước Do Thái để giảng đạo và chữa bệnh miễn phí cho dân nghèo. Jesus là bạn đồng đạo của họ nên được họ tận tình săn sóc trong dịp này. Lúc di chuyển Jesus rời khỏi ngôi mộ trong vườn của Joseph, họ đã để quên tấm vải trắng liệm xác Jesus tại đó. Sáng hôm sau là ngày Chủ nhật, người Do Thái gọi là ngày đầu tuần, bà Magdelene, vợ Jesus đến mộ thăm chồng. Kinh Thánh của John (12:1-18) kể chi tiết như sau: Magdelene đến thăm mộ Chúa trong buổi sáng ngày đầu tuần lúc ấy trời hãy còn tối: Bà thấy hòn đá chắn cửa mộ đã bị dời đi chỗ khác. Bà vô cùng hoảng hốt bèn vội vàng chạy đi tìm Peter (Phêrô) và John (Gioan tông đồ) than khóc với hai người rằng: "không biết ai đã mang xác Chúa ra khỏi mộ rồi". Nghe nói vậy, Peter và John chạy đến ngôi mộ của Chúa. John còn trẻ, chạy nhanh tới trước, nhưng John chỉ đứng ở cửa hang ngó vào nhìn thấy tấm vải trắng chứ không dám vào hang mộ. Peter chạy chậm tới sau bước thẳng vào hang. Peter nhặt tấm vải lúc ấy đã được cuộn lại, khi gỡ ra, Peter thấy trong đó có chiếc khăn che mặt của Chúa nữa.

Kinh Thánh của John thuật đoạn chuyện trên với các động từ thì hiện tại (present tense) muốn chứng tỏ những sự việc này do tác giả chứng kiến trực tiếp. Sách Kinh Thánh Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp. Khi mô tả vết thương cạnh sườn của Chúa (the side wound), tác giả gọi đó là vết trầy nhẹ (nyssein = a light scratch). Saint Jerome (340-420) là người đầu tiên dịch các sách Kinh Thánh Tân Ước từ tiếng Hy lạp ra tiếng La Tinh. Bộ sách Kinh Thánh do Jerôme dịch ra được gọi là Vulgate (Sách Phổ Thông) đã trở thành bản Kinh Thánh chính thức của đạo Kitô. Trong bản dịch Vulgate, Jerôme đã xuyên tạc nhiều điều của nguyên bản Hy Lạp. Vết thương cạnh sườn của Jesus từ một vết trầy theo đúng chữ Hy Lạp NYSSEIN có nghĩa là vết trầy nhẹ (a light scratch) trong nguyên bản, Jerôme đã biến nó thành APERIRE có nghĩa là "một vết thương mở toang" (an open wound) với máu và nước trong người của Chúa chảy ra. Mọi người đọc bản dịch Kinh Thánh của Jerôme có cảm tưởng vết thương cạnh sườn của Jesus là một nhát đâm dứt điểm, tương tự như "coup de grâce". Người La Mã không hề dự liệu thủ tục "coup de grâce". Thủ tục này do người Pháp lập ra vì lý do nhân đạo nhằm giúp các tử tội không phải chịu đựng sự đau đớn lâu dài. Người Pháp định nghĩa coup de grâce như sau: "a deathblow delivered to end the misery of a mortally wounded victim". Mục đích nhân đạo của "coup de grâce" hoàn toàn ngược lại với chủ đích của người La Mã. Khi xử dụng hình phạt đóng đinh trên thập tự, họ muốn tử tội phải bị đau đớn lâu dài, dầm mưa dãi nắng, bị lột trần truồng và bị bêu xấu ở những nơi có nhiều người trông thấy, nhằm mục đích khủng bố tinh thần của đám nô lệ hay dân các nước thuộc địa. Luật La Mã qui định thủ tục xác nhận cái chết của tử tội (confirmation of the death) bằng cách đập gẫy chân tử tội. Với thể thức này, tội nhân không còn đủ sức để gượng nâng thân mình lên, toàn thân sẽ rũ xuống, đầu tội nhân cúi gằm xuống ngực khiến tội nhân chết vì ngộp thở. Luật La Mã không hề qui định việc lấy giáo đâm vào tim tử tội cho chết hẳn tương tự như "phát súng ân huệ" của người Pháp.

Người Pháp khủng bố tinh thần bằng phương pháp khác như chặt đầu chụp hình làm stamp (tem thơ, tem cò), để đàn áp tinh thần dân thuộc địa. Vụ đầu độc Hà Thành các liệt sĩ VN đã bị Pháp chụp hình đầu lâu làm tem thơ là một ví dụ.

Mọi điều vừa nêu hãy còn sờ sờ ra đó trên các văn bản của Luật La Mã và nguyên bản Kinh Thánh Hy Lạp. Bản địch Kinh Thánh Vaulgate của Jerôme đã để lộ nguyên hình là một sự gian trá cố tình. Phải chăng chính vì vậy mà Jerôme đã được ghi công và được phong thánh? Ngày nay, chúng ta hiểu tại sao giáo hội La Mã đã cấm không cho ai được phép dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp mà phải dịch ra từ bản Vulgate của Jerôme. Mọi mưu toan dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp đều bị trả giá bằng cái chết trên dàn hỏa. Nhưng không một sức mạnh nào có thể vượt qua được sức mạnh của sự thật. Sự thật là sức mạnh vô địch và tối hậu sẽ tiêu diệt mọi thủ đoạn dối trá nhằm che mờ lý trí và lương tri con người.


--------------------------------------------------------------------------------
Về Đầu Trang Go down
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty25/8/2010, 19:36

Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác

Charlie Nguyễn


CON BẠCH TUỘC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

(Octopus Dei)


Ký giả Paul Hofman của New York Times, tờ nhật báo lớn nhất thế giới, đã định cư tại Rome từ năm 1938 và làm việc tại đây liên tục trong 35 năm liền với tư cách ký giả chuyên nghiệp kiêm siêu điệp viên quốc tế. Ông trở thành "bạn thân" của hầu hết các giới chức cao cấp tại Vatican qua các triều đại giáo hoàng từ Pio XII (38-39) cho đến đương kim giáo hoàng John Paul II. Giới ký giả quốc tế gọi ông là "The Vatican Watcher" hoặc "The Vatican Insider" có nghĩa là điệp viên nằm vùng tại Vatican . Ông viết nhiều tác phẩm giá trị về Vatican như "Rome: The Sweet Temptuous Life", "O Vatican, A Slight Wicked View of The Holy See" và tác phẩm độc đáo mang tựa đề La Tinh "Octopus Dei" có nghĩa là "Con Bạch Tuộc của Đức Chúa Trời".

Qua các tác phẩm của ông, người đọc được biết rất nhiều chuyện thuộc loại thâm cung bí sử của Vatican . Ở đây chúng tôi xin tổng hợp các tác phẩm trên của ông và chỉ thuật lại mấy nét điển hình về quốc gia đô thị (State City ) có một không hai này của thế giới.

- Về phương diện thần quyền, Vatican là thủ đô của một đế quốc tinh thần bao gồm gần một tỷ thần dân là các tín đồ Công Giáo La Mã rải rác khắp năm châu. Giáo hoàng là hoàng đế, các hồng y là hoàng tử, 4000 giám mục là các cán bộ cao cấp, 400.000 cán bộ hạ tầng cơ sở được mệnh danh là "linh mục", tương đương với cấp "manager" trong các đại công ty. Ngoài ra, Vatican còn có một đội ngũ gồm 1 triệu nữ tu, phần đông hành nghề dạy học, y tá và sản xuất các mặt hàng tiểu công nghệ.

- Về phương diện thế quyền, Vatican là một tiểu quốc, giáo hoàng là quốc trưởng với 450 cư dân, tuy nhiên chỉ có 280 cư dân mang quốc tịch Vatican mà thôi. Vatican là lãnh thổ quốc gia nhỏ nhất thế giới, diện tích vỏn vẹn 44 hectares (bằng 1/6 Monaco) nhưng có quốc kỳ, quốc ca riêng biệt và có liên hệ ngoại giao trên cấp bậc đại sứ với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tổng số các nhân viên phục vụ thường xuyên cho Vatican gồm có 4500 người sống rải rác chung quanh Rome (quét đường, cắt cỏ, xây cất sửa chữa lầu đài dinh thự...). Vatican cung cấp lợi tức cho 3 triệu dân Rome qua ngành du lịch của khách hành hương, ngành sản xuất các ảnh tượng và các dụng cụ làm lễ của tu sĩ. Nếu vì lý do nào đó Vatican bị sụp đổ, hậu quả trước mắt là 3 triệu dân Rome sẽ bị thất nghiệp!

Vatican là sở hữu chủ của một tài sản khổng lồ lên tới nhiều ngàn tỷ đô la. Tại Ý, Vatican là địa chủ lớn nhất. Cho nên Vatican khó có thể chui lọt qua cổng Thiên Đàng vì Chúa đã phán "Kẻ giàu vào nước Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim". Vatican City có 50 cung điện gồm 1000 phòng có máy lạnh, 977 cầu thang, 12.000 cửa sổ, 5 nhà thờ lớn và 11 viện bảo tàng, một tiệm thuốc tây, một ty bưu điện, 2 phi trường, 350 mét đường xe lửa và một đài phát thanh cổ nhất thế giới.

Mỗi hồng y được cấp một xe limousine màu xanh đậm, mỗi tháng được lãnh pay-check 1500 đô la và được chính phủ Ý miễn các thứ thuế.

Giáo hoàng có phi cơ phản lực riêng để đi xa. Muốn đi gần, ngài chỉ cần nhấc phone là không lực Ý phái trực thăng tới liền.

Văn phòng làm việc của giáo hoàng ngày nay là lâu đài Apostolic (Lâu Đài Tông Đồ) được xây cách đây một ngàn năm. Trong những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Kitô Giáo không có giáo hoàng và chính thánh Phêrô cũng chẳng được làm giáo hòang ngày nào. Ngài có vợ có con và rất nghèo, không có nỗi một chỉ vàng làm nhẫn cho tín đồ hôn tay. Tính ngài vốn bình dân vì ngài cả đời chỉ chuyên đánh cá trên hồ Galilee nên không muốn mọi người cúi chào mình. Sách Tông Đồ Công Vụ thuật chuyện: Một hôm Phêrô đến nhà Cornelius, chủ nhà quì mọp xuống tỏ vẻ kính trọng. Phêrô nâng chủ nhà dậy và nói: "Hãy đứng dậy, tôi chỉ là người thường thôi" (Stand up, I myself am a man - Act 10: 25-26).

Công trường Thánh Phêrô là một công trường quốc tế. Đây là nơi hành hương mà hàng tỷ người mong ước được đến đó một lần trong đời chỉ để quì gối xuống sân đá đón nhận phép lành tòa thánh của giáo hoàng giơ tay lên ban xuống từ khung cửa sổ tòa lâu đài Apostolic! Đây là những show được trình diễn quanh năm. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có thể có được những show độc đáo và thường xuyên như vậy. Ký giả Paul Hofman cho biết những show này đều được dàn dựng để trình diễn (tailor-made show for video) nhằm mục đích làm nổi bật vai trò của "Người Khổng Lồ Ngồi Sau Cửa Sổ!". Cũng từ cái cửa sổ này, giáo hoàng giống như con rùa lâu lâu lại thò đầu ra để công bố tín điều hoặc ban huấn thị cho toàn thể Hội Thánh. Từ hơn ngàn năm qua, các giáo hoàng đều tự cho mình là kẻ duy nhất trên hoàn cầu có thẩm quyền xác định hay phủ nhận mọi giá trị tinh thần tối hậu (Pope is the only one on earth to proclaim ultimate moral values).

Nhưng tất cả đều chỉ là những màn kịch. Người thực sự cai trị giáo hội không phải là giáo hoàng mà là CURIA tức "Văn phòng Điều khiển Giáo hội" gồm toàn những chuyên viên thuộc mọi lãnh vực. Những người điều khiển CURIA lại là những người dấu mặt (faceless) thuộc siêu quyền lực.

Các thành viên của CURIA đều là đàn ông. Vatican không chấp nhận cho đàn bà làm linh mục hoăc cho giữ một chức vụ nào trong Tòa Thánh. Lý do rất chính đáng là Chúa ngày xưa cũng chỉ chọn các thánh Tông đồ đều là đàn ông cả. Thật vậy, chẳng có một việc nào quan trọng của Chúa và của Hội Thánh có thể tin cậy mà giao cho cái đám đàn bà vô tích sự được !.

(Nhân tiện đang đề cập đến truyền thống kỳ thị phụ nữ của đạo Công giáo, tôi nhớ đến một số tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi nên xin phép quí độc giả bàn thêm ở đây mấy điều quan trọng là thậm chí ở trên trời, Ba Ngôi Thiên Chúa của đạo Ki tô (Christian God = Trinity God) cũng đều là đàn ông cả : Chúa Cha mũi lõ mắt xanh râu xồm, vừa tàn bạo vừa lắm điều và thường hay dùng ngón tay chỉ chỏ. Chúa Con Ngôi Hai nửa người nửa thần linh, mặt mũi đẹp giai trung bình nhưng nhờ khá to con khoẻ mạnh khéo nói nên được quý bà quý cô ngày xưa đi theo khá đông. Ngôi Hai Thiên Chúa cao 1 mét 82, nặng 79 kí lô. Các chi tiết này được ghi nhận trên giấy trắng mực đen theo kết quả giảo nghiệm của phái đoàn quốc tế điều tra về Tấm Vải Liệm ở Turin tháng 10 - 1978 . Còn về phần Đức Chúa Thánh Thần là Ông Xã của Đức Mẹ Maria thì cũng chính là Đức Chúa Jesus vì Ba Ngôi cũng là Một Đức Chúa Trời mà chớ!.Ai dám bảo Chúa Jesus không phải là chính Đức Chúa Thánh Thần (Ông Xã của Đức Mẹ) thì kẻ ấy là rối đạo vì nó không tin Chúa Jesus là Thiên Chúa thật. Nó đáng bị đưa lên dàn hỏa mà đền tội ở đời này và còn bị sa hỏa ngục đời đời chẳng cùng.

Kẻ nào không tin Đức Chúa Thánh Thần là con cháu vua David thì tức là kẻ đó đã phủ nhận Chúa Jesus là Đấng Cứu Thế vì Chúa Cứu Thế phải là người thuộc dòng dõi vua David. Kinh Thánh không kể về gia phả của Đức Mẹ mà chỉ kể về gia phả của Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua David, nhờ có chút hạt giống truyền đời của David với bà Bethsabe (mối tình tội lỗi) nên Chúa Giêsu mới được coi là Chúa Cứu Thế đúng như Cựu Ước đã tiên tri. Như vậy Thánh Giuse là cha ruột của Chúa Giêsu và Đức Mẹ không thể là bạn thanh sạch của Người. Kinh Thánh không có chỗ nào xác định ông Joachim và bà Anna , tức cha mẹ của Mẹ Maria và là ông bà ngoại của Jesus, thuộc dòng dõi vua David cả. Ai biết xin chỉ dùm, tôi xin hậu tạ và cám ơn.

Trở lại với ông ký giả Hofman, theo thống kê thì Vatican có khoảng 900 triệu tín đồ, nhưng trên thực tế số tín đồ Công Giáo La Mã hiện nay thực ra chỉ còn vài trăm triệu thôi. Giáo dân tại các nước giàu có như Mỹ, Anh, Pháp, Đức và các nước có trình độ văn hóa cao đều rất ghét Vatican và khinh bỉ giáo hoàng ra mặt. Chỉ những nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha (Philippines và Việt Nam - Ch. Ng.) trình độ giáo dân hãy còn thấp kém nên vẫn kính sợ giáo hoàng như xưa! Ngày nay, giáo hoàng đi đâu cũng sợ bị phản đối và ám sát nên phải chui vào xe bọc sắt với những tấm kiếng chắn đạn. Thực ra, chính giáo hoàng cũng không còn tin tưởng vào sự che chở quan phòng của Thiên Chúa nữa! Xe chắn đạn của giáo hoàng được gọi là "The Pope Mobile" hiệu Mercedes, kiểu station-wagon, mang bảng số viết tắt là SCV (Stato Citta del Vaticano). Người Pháp chế diễu đọc là "Si Christ Voyait-çà" (Ước gì Chúa Kitô nhìn thấy nó).

Vatican có một bệnh viện cổ nhất thế giới mang tên Gemelli Clinic được xây từ thời Phục Hưng. Năm 1981, Giáo Hoàng John Paul II bị thương trong một vụ ám sát hụt và được đưa vào điều trị tại bệnh viện này. Vì các trang bị quá cũ và không hợp vệ sinh, khiến giáo hoàng suýt được về với Chúa vì bị nhiễm trùng.

Phụ tá công việc cho giáo hoàng là Hội Đồng Hồng Y (The Sacred College) tương đương với thượng nghị viện. Các giám mục muốn trở thành hồng y phải có uy tín tương đương với các người được lãnh giải Nobel. Giám mục nào muốn vận động để được phong lên hồng y phải có khả năng vận động tương đương với các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Các hồng y da trắng nắm hết các chức vụ quan trọng, các hồng y da đen có nhiệm vụ đi tới đi lui ở công trường Thánh Phêrô để du khách quay phim chụp ảnh.

Theo lý thuyết thần học Công giáo, các giáo hoàng là Đại diện của Chúa Kitô tại thế gian (Vicar of Christ) nên chức vụ giáo hoàng là do Thiên Chúa chọn lựa. Trong thực tế, các giáo hoàng cũng chịu chung số phận như các vua chúa thế gian: "càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan!".

Vatican không phải đã được thành lập từ thuở ban đầu của đạo Kitô. Nó bắt đầu trở thành thủ phủ của giáo hội Công Giáo từ năm 378, tức là 53 năm sau khi Constantine lập ra đạo Công Giáo (năm 325) với giáo hoàng đầu tiên là Demasus. Trước năm 378 không có Giáo Hoàng mà chỉ có chức giám mục (bishop) là cao nhất trong Giáo Hội Ki Tô nguyên thủy (The Early Christianity). Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow California ghi nhận về điều này như sau : Chức Giáo Hoàng tiếng La tinh goi là Pontifex Maximus có nghĩa là Đấng Tối Cao của Hội Thánh (Head of Church) . Sau khi lập đạo Công giáo nguời ta bầu Hoàng Đế Constantine lên làm Giáo Hoàng nhưng Ngài không nhận. Các hoàng đế kế tiếp cũng chẳng có ai chịu nhận chức này. Cho nên khắp nơi của Giáo hội chỉ có chức Giám mục là cao nhất. Trong ba thế kỷ đầu Công nguyên ở La Mã cũng chỉ có giám mục mà thôi (Bishop of Rome ) . Dần dần Giám mục ở Rome dùng mọi thủ đoạn thâu tóm quyền lực chính trị và tăng thêm uy thế. Cuối cùng, vào năm 378, Giám mục ở Rome là Demasus là người đầu tiên được bầu giữ chức Pontifex Maximus đứng đầu Hội Thánh Toàn Cầu từ đó. (Babylon Mystery Religion p. 72)

Vatican cũng chẳng phải là giáo đô thường trực của Giáo hội. Năm 1309, vua Pháp Philip IV tấn công Rome và bắt cóc giáo hoàng đem về giam tại Avignon thuộc tỉnh Provence miền Nam nước Pháp. Trong 68 năm, từ 1309 đến 1377, Avignon trở thành thủ đô chính thức của giáo hội Công Giáo. Các giáo hoàng được bổ nhiệm hay bị truất phế đều do vua Pháp quyết định chứ không do Hội Đồng Hồng Y bầu ra dưới sự soi sáng của Đức Chúa Thánh Thần .


Ngoài các sách của giới ký giả chuyên săn tin tòa thánh, còn có nhiều nhà nghiên cứu sưu tầm sử liệu công phu giúp chúng ta tìm hiểu về các Giáo Hoàng La Mã một cách đầy đủ, không sót một ai. Một trong những sách thuộc loại này thiết tưởng không gì hơn là tác phẩm Giáo Hoàng Bách Khoa Tự Điển (The Pope Encyclopedia của Matthew Bunson, Crown Trade Paperbacks NY-1995). Tác giả đã dầy công sưu tầm tài liệu trực tiếp trong các kệ tủ niên giám của Vatican để hoàn thành tác phẩm này. Theo lịch sử giáo hội Công Giáo La Mã, tổng cộng cả thảy có 263 giáo hoàng (tính đến năm 2001).

Trên phương diện giáo lý Công Giáo, giáo hoàng là vị đại diện của Chúa Kitô và những quyết định của Ngài về các vấn đề tín lý và giáo lý là những điều rất quan trọng cho phần hồn của gần một tỷ tín đồ trên thế giới nên Thiên Chúa không thể để cho Ngài có thể sai lầm. Công đồng Vatican I năm 1870 (Vatican Council of 1870) đã đưa điều này lên thành tín điều được gọi là "Tín điều giáo hoàng bất khả ngộ"* (The dogma of Papal infallibility). Theo nhận định của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow California thì nếu đứng trên phương diện lịch sử khách quan, chúng ta sẽ nhận thấy có nhiều giáo hoàng bất xứng vì họ đã sống hoàn toàn vô đạo đức, thậm chí có nhiều giáo hoàng đã ám hại nhau để cướp ngôi. Hiệp Hội này viết rất xác đáng như sau : "Những sự bất đồng gay gắt giữa các giáo hoàng chắc chắn đã phản bác ý tưởng cho rằng giáo hoàng không thể sai lầm!" (Such sharp disagreement between popes certainly argues against the idea of papal infallibility - Babylon Mystery Religion, p.93).

Cũng theo nhận định của Hiệp Hội này, Vatican là "cái lò chuyên sản xuất các thánh lớn nhất thế giới". Thuở xa xưa người Babylon đã sản xuất tới 5000 thánh mà cũng không cứu được đế quốc Babylon khỏi bị hủy diệt hoàn toàn (Babylon Mystery Religion p. 24.). Điều khôi hài là ngày nay Vatican suy tôn nhiều vị thánh đã được phong từ xa xưa làm thánh quan thầy (patron) cho nhiều phát minh hiện đại như : St.Cominic quan thầy ngành không gian, St. Matthew quan thầy các chủ nhà băng, St. Fiace quan thầy những người lái taxi, St. John Bosco quan thầy các nhà xuất bản (như Giao Điểm chẳng hạn) , St. Dorothy quan thầy các tiệm bán hoa và áo đám cưới, St. Gemma Galgani quan thầy các chủ tiệm thuốc pharmacy v.. v.. (p.25)



Trở lại với "Giáo Hoàng Bách Khoa Tự điển", (The Pope Encyclopedia) chúng ta điểm qua tiểu sử của một số giáo hoàng tiêu biểu:

- Baby Pope: John XII. Lên ngôi giáo hoàng năm 18 tuổi, cai trị Hội Thánh Công Giáo 9 năm (955-964).

- Giáo Hoàng Mặt Heo (Bucca Porci): Năm 909, một tu sĩ được bầu lên làm giáo hoàng lấy hiệu là Sergius IV. Trước khi làm giáo hoàng, y tằng tịu với cô gái 15 tuổi tên là Mezozia, sinh ra đứa con trai tên Alberic. Sau khi làm giáo hoàng, y gian díu với rất nhiều đàn bà con gái khác nên được mọi người tặng cho cái danh hiệu là "Giáo Hoàng Mặt Heo" (Bucca Porci). Giáo Hoàng Sergius IV dùng quyền lực của mình đã đưa Alberic lên làm hoàng đế cai trị La Mã. Alberic về sau cũng hoang dâm như cha và có rất nhiều con hoang. Năm 955, bạo chúa Alberic đã ép Vatican phải chấp nhận cho một đứa con hoang của y mới 18 tuổi lên ngôi giáo hoàng. Đó chính là Giáo Hoàng John XII nói trên. Như vậy, trong lịch sử giáo hội La Mã đã có hai ông cháu đều làm giáo hoàng! Cả hai giáo hoàng này đều nổi tiếng về tính dâm dục. Năm 962, dân La Mã nổi lên chống Giáo Hoàng John XII. Giáo hoàng bèn kêu cứu vua nước Đức là Otto the Great mang quân sang Ý đàn áp dân chúng. Cuộc đàn áp hết sức dã man đã tiêu diệt mọi sức chống cự của quần chúng. John XII chẳng những vẫn duy trì được ngôi giáo hoàng mà còn được Otto the Great phong làm hoàng đế La Mã nữa. Tháng 2 năm 964, Otto the Great truất phế John XII để đưa người thân tín của y lên làm giáo hoàng lấy hiệu là Leo VIII. John XII sợ bị giết đã rời bỏ Vatican trốn đi biệt tích.

- Hai Giáo Hoàng XXIII: Trong lịch sử giáo hội Công Giáo có hai giáo hoàng cùng lấy hiệu là John XXIII:

* Người thứ nhất là Baldassare Cossa sinh tại Naples năm 1378. Năm 1410, Cossa được phong chức giáo hoàng. Ít lâu sau người ta phát giác Baldassare Cossa có nhiều vợ và đã đầu độc giáo hoàng tiền nhiệm là Alexander để cướp ngôi. Do đó, hội đồng hồng y họp tại Constance năm 1414 đã xác định John XXIII (tức Cossa) là giáo hoàng giả (antipope) và truất phế y. Cuối cùng John XIII giả bị giáng chức xuống làm giám mục ở Tusculum, chết tại Florence năm 1419.

* Người thứ hai lấy hiệu John XIII là hồng y Roncalli, lên ngôi giáo hoàng năm 1953, qua đời năm 1963. Đó chính là vị giáo hoàng đã khai sinh Công Đồng Vatican II. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm một số chuyện về Ngài trong chương sau.

- Giáo hoàng kiêm bạo chúa La Mã: Alexander VI (1492-1503 ) tên thật là Rodrigo Borgia, đã không do hội đồng hồng y bầu lên mà do cậu ruột là Giáo Hoàng Callistus III truyền ngôi cho. Lúc lên làm giáo hoàng, Rodrigo đã có vợ là nữ quí tộc Vannozza và có 4 con với bà này. Các con của y đều đã trưởng thành. Giáo Hoàng Alexander VI phong cho đứa con trai thứ hai chính thức của y và 5 đứa con hoang chức vụ hồng y. Sau khi ở ngôi giáo hoàng được 5 năm, tức vào năm 1497, y muốn truyền ngôi giáo hoàng cho đứa con trai lớn tên là Juan. Phe chống đối đã bí mật giết chết Juan và ném xác xuống sông Tiber . Giáo Hoàng Alexander VI nghi cho phe quí tộc đã ám hại con mình nên đã khởi động một cuộc khủng bố đẫm máu chống giới quí tộc La Mã.

Trong 11 năm làm giáo hoàng kiêm bạo chúa La Mã, Alexander VI đã gây quá nhiều thù oán nên đã bị đầu độc chết ngày 18.8.1503. Tuy nhiên, giáo hoàng này đã hoàn thành một công trình kiến trúc để đời, đó chính là Đền Thánh Phêrô tại Vatican ngày nay. Trước khi chết vào năm 1503, Alexander VI đã coi thế giới như của riêng mình nên chia ra làm hai : Một nửa thế giới phương Tây giao cho Tây Ban Nha độc quyền đi chinh phục. Một nửa thế giới về phương Đông, trong đó có Việt Nam, do Bồ Đào Nha nắm độc quyền khai thác. Đầu thế kỷ 16 Phanxico Xavie là người Tây Ban Nha và đầu thế kỷ 17 cố đạo Đắc Lộ là người Pháp muốn giảng đạo tại Á châu đều phải xin phép Hoàng gia Bồ Đào Nha.

- Giáo hoàng bị Napoléon cách chức: Năm 1808, Napoléon mang đại quân đánh chiếm Rome và Vatican, bắt Giáo Hoàng Pio VIII giải về Paris tống giam. Sau khi Napoléon bị bại trận tại Waterloo, Giáo Hoàng Pio VIII được phóng thích nhưng chỉ được giữ chức hồng y. Cuối cùng y bị đầu độc chết năm 1830.

- Các giáo hòang của chủ nghĩa thực dân và bạo lực:

* Leo XIII là một học giả uyên thâm cai trị giáo hội 25 năm (1878-1903). Trong thời đại của Ngài, chủ nghĩa thực dân Âu Châu đạt tới đỉnh cao của công cuộc xâm chiếm thuộc địa rộng khắp thế giới. Leo XIII đã khôn khéo lợi dụng sự kiện các nước thực dân, hầu hết đều là những nước Công giáo ở Âu Châu, để dựa vào đó phát triển thêm rất nhiều địa phận Công giáo ở Á Châu, nhất là tại Ấn Độ và Phi Châu. Riêng tại Mỹ Châu , Vatican có thêm 28 giáo phận mới.

Leo XIII là người đầu tiên lên án chủ nghĩa Cộng Sản khi chủ nghĩa này mới nhú lên ở Âu Châu. Ngài cũng là người đầu tiên xây dựng các Phong Trào Thanh Niên Công Giáo Vũ Trang tạo thành bạo lực phản công để chống lại các lực lượng chống Công Giáo. Điển hình là các Lực Lượng Thanh Niên Công Giáo Đức đã thành công trong việc đấu tranh chống lại Phong Trào Bài Công Giáo do Thủ Tướng Bismark chủ trương vào cuối thế kỷ 19. Kết quả Thủ Tướng Bismark đã bị buộc phải từ chức ngày 18.3.1890. Tuy nhiên, ác giả ác báo, GH Leo XIII đã bị bí mật đầu độc chết sau đó !.

Noi gương Leo XIII là Pio X (1903-1914). Ngài cương quyết chống lại mọi đề nghị canh tân giáo hội và chủ trương chống lại mọi kẻ thù của giáo hội bằng bạo lực. Pio X thành lập tổ chức mệnh danh là "Công Giáo Hành Động" (Catholic Action) và võ trang cho những tổ chức này thành những lực lượng quân sự. Một ngày trước khi Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, tức 20.8.1914. Pio X bị đầu độc chết. Ngài được Pio XII phong thánh ngày 29.5.1954.


- Đương kim Giáo Hoàng Jean Paul II và cái chết mờ ám của Giáo Hoàng Jean Paul I tiền nhiệm.

Ngoài cuốn tự điển Bách Khoa về Giáo Hoàng, hiện nay có rất nhiều sách best-sellers nói về Vatican và giáo hoàng. Trong số đó phải kể đến tác phẩm IN GOD'S NAME (Nhân Danh Chúa) của David Yallop, Bantam Books, NY xuất bản năm 1984.

John Paul I được bầu làm giáo hoàng vào tháng 8 năm 1978 lúc Ngài 65 tuổi. Ngài là vị giáo hoàng đần tiên lấy danh hiệu bằng hai tên thánh John Paul. Ngài luôn luôn tươi cười vui vẻ nên được giới ký giả quốc tế tặng danh hiệu là Đức Giáo Hoàng Di Lặc Công Giáo (Smiling Buddha Pope). Ngài bị đầu độc chết sau khi uống một ly cà phê vào lúc 11 giờ tối 28.9.1978. Người mưu sát Ngài là Hồng Y Jean Villot, quản nhiệm địa phận Lyon (Pháp), lúc đó làm Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh (tương đương thủ tướng). Hồng Y Jean Villot là hội viên Tam Điểm (Free Masonry) bí danh Jeanni, được kết nạp tại Zurich ngày 6.8.1976, đứng đầu "Đại Tổ Vatican " (The Great Vatican Lodge). Trước khi gia nhập Tam Điểm, Hồng Y Jean Villot đã nắm trọn guồng máy hành chánh của triều đình Vatican từ năm 1962. Dưới quyền Jean Villot có 121 cán bộ nằm vùng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các cơ quan của Tòa Thánh. Tháng 3.1979, Jean Villot qua đời. Đương kim Giáo Hoàng Jean Paul II bổ nhiệm đàn em thân tín của Jean Villot, một trong số 121 cán bộ Tam Điểm, là Hồng Y Casaroli đảm nhiệm chức vụ Quốc Vụ Khanh từ tháng 3.1979. Tất nhiên, GH Jean Paul II biết hết mọi chuyện bí mật của Jean Villot và phải là người trong nhóm bí mật của siêu quyền lực dấu mặt mới có thể được cất nhắc lên ngôi vị giáo hoàng như hiện nay.

- Nữ Giáo Hoàng Joan. Tiểu sử của nữ giáo hoàng này đã trở thành một huyền thoại rất nổi tiếng tại các nước Âu Châu trong hơn ngàn năm qua. Bà là một phụ nữ lanh lợi tài hoa, ham mê hoạt động và có tham vọng khuynh đảo thế giới. Từ lúc còn nhỏ, bà cải trang thành con trai và xin vào tu tại dòng tu nam giới. Sau bà trở thành một tu sĩ rất nổi danh về sự thông thái và tài hùng biện. Năm 855, bà được hội đồng hồng y bầu lên ngôi giáo hoàng. Sau khi cai trị hội thánh được hai năm bảy tháng, giáo hoàng hạ sinh một đứa con trong đám rước kiệu từ đền Thánh Phêrô đến Lateran. Do đó giáo hoàng bị phát giác là đàn bà giả trai. Ngay lập tức nữ giáo hoàng bị dân chúng nổi giận lột hết quần áo và bị đưa tới công trường Colosseum để dân chúng ném đá đến chết. Tại kho văn khố của Vatican hiện còn lưu trữ nhiều bài diễn văn nổi tiếng của Nữ Giáo Hoàng Joan. Bà là người đầu tiên tuyên bố "Giáo Hoàng là người thừa kế của Thánh Phêrô" (The Pope is the successor of St. Peter). Tiểu sử của bà được thuật lại đầy đủ trong các sách của các sử gia Petrarch và Boccacio. Tự Điển Bách Khoa Công Giáo (The Catholic Encyclopedia) xác nhận: "Trong các thế kỷ 14 và 15, nữ giáo hoàng được coi là một nhân vật lịch sử, sự hiện diện của bà là điều không thể ai có thể nghi ngờ" (In the fourteenth and fifteenth centuries, this popes was already counted as a historical personage, whose existence no one doubted).

- Các giáo hoàng dâm loạn. Tác phẩm Babylon Mystery Religion của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow (California) xuất bản năm 1966, tái bản năm 1990, nơi các trang 88-90 có liệt kê nhiều tên giáo hoàng dâm loạn đến mức không thể tưởng tượng được!

* Trong thế kỷ 15, tại Công Đồng Constance (Council of Constance ), giáo hội Công Giáo có tới 3 giáo hoàng cùng một lúc. Các giáo hoàng này chửi rủa nhau và gọi nhau là quỉ hoặc là kẻ chống Chúa Kitô (antichrist), kẻ thù của Chúa và loài người... Đặc biệt họ đã tố cáo nhau về các tội dâm loạn, ngoại tình, loạn luân, đồng tính luyến ái (sodomy).

Giáo Hoàng John XXIII (1410-1415) bị hàng chục giám mục và rất nhiều nhân chứng tố cáo đã xâm phạm tiết hạnh ba trăm nữ tu và có một cung viện tại Bologne chứa trên hai trăm cô gái. Ngoài ra, John XXIII còn bị Công Đồng kết án về 54 tội đại hình khác!

Hồ sơ lưu trữ tại Vatican còn ghi nhận John XXIII thông dâm với em dâu, phá trinh nhiều cô gái, dụ dỗ nhiều phụ nữ có chồng và phạm đủ loại tội dâm dục. Công Đồng gọi y là "con quỉ hóa thân" (The Devil Incarnate - Sacrorum Consilioritum Vol.27, p. 663).

- Pio II (1458-1464) và Paul II (1464-1471) là hai giáo hoàng kế tiếp nhau đều có cung viện (harems) chứa rất nhiều cung nữ.

- Giáo Hoàng Innocent VIII (1484-1492) thông dâm với nhiều phụ nữ và có 16 đứa con. Nhiều con của y được tổ chức đám cưới linh đình ngay tại Vatican (The Catholic Encyclopedia Vol.8, p.19).

- Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) có vợ 5 con lúc còn làm hồng y. Sau khi lên ngôi giáo hoàng, y loạn luân với hai em gái và với con gái ruột tên Lucretta. Y có một đứa con với con gái ruột của mình! (History of the Reformation D'Aubigne P.11). Ngày 31.10.1501, Alexander VI tổ chức dạ hội với 50 cô gái thoát y. Giáo hoàng treo giải thưởng cho người đàn ông nào làm tình lâu nhất.

- Giáo Hoàng Paul III (1534-1549) lúc còn là hồng y đã có ba con trai, một con gái. Lúc lên ngôi giáo hoàng, y làm lễ rửa tội cho hai đứa cháu nội và ngoại. Giáo hoàng hay tin dị đoan và thường hỏi ý kiến các thầy bói.

- Giáo Hoàng X (1513-1521) đi tu năm 7 tuổi, được phong chức hồng y năm 13 tuổi và lên làm giáo hoàng lúc 38 tuổi. Y sống cuộc đời của một giáo hoàng hết sức xa hoa, thường xuyên tổ chức dạ vũ với những mục giải trí đắt giá và trụy lạc.

- Trong thời gian này, tu sĩ Martin Luther đến Rome để hành hương với ý tưởng rằng Rome là thành phố thánh thiện (a holy city). Không ngờ tu sĩ Luther đã được chứng kiến một bữa tiệc tại triều đình Vatican có 12 cô gái vũ thoát y. Tu sĩ Luther trở về Đức phát động phong trào chống đối Vatican và lập ra đạo Thệ Phản (Protestanism). Martin Luther tuyên bố: "Không ai có thể tưởng tượng nổi ở Rome đầy dẫy những hành động tội lỗi xấu xa. Người ta phải đến đó để nghe để thấy mới tin. Thật đúng như người ta vẫn thường nói: Nếu có một địa ngục thì Rome đã được xây dựng trên cái địa ngục đó!" (No one can imagine what sins and infamous actions are committed in Rome . They must be seen and heard to be believed. Thus they are in the habit of saying: If there is a hell, Rome is built over it!)

Dưới con mắt của các nhà quan sát quốc tế hiện nay thì Vatican là đầu não của chủ nghĩa đế quốc tinh thần (Spiritual Imperialism) giống như con bạch tuộc có nhiều vòi. Mỗi giáo hội Công Giáo tại mỗi quốc gia là một cái vòi của nó. Trong một thời gian không xa, cái đầu con bạch tuộc Vatican sẽ bị đập nát. Lúc đó, các cái vòi của nó trên khắp thế giới sẽ từ từ tiêu vong mà không cần phải diệt. Tuy nhiên tổ chức giáo hội Công Giáo còn để lại đằng sau một khối đông đảo tín đồ mê muội của nó. Vấn đề chính yếu không phải là dùng bạo lực tiêu diệt các tổ chức giáo hội địa phương mà là giáo dục tập thể quần chúng tín đồ, với lòng nhân ái bao dung thông cảm, để họ nhận biết sự thật về giáo hội đã lừa mị họ bấy lâu. Khi mọi nguời đều nhận thức được sự thật thì tà đạo Công giáo sẽ tự nhiên biến mất như cục nước đá đem phơi nắng giữa buổi trưa hè! Sự Thật là linh dược giải cứu tất cả chúng ta.


--------------------------------------------------------------------------------
Các chương khác trong sách:
Abraham: Ông Tổ của các Đạo Chúa
Bí Mật Ở Núi Sọ
Con Bạch Tuột của Đức Chúa Trời
Các Khố của Giê Su Trên Thập Giá
Các Tu Sĩ Dòng Tên (Charlie Nguyễn)
Các Yếu Tố Hình Thành Kitô Giáo
Các Đạo Thờ Thiên Chúa và đạo Thờ Bò
Cái Nôi của Các Đạo Chúa
Công Giáo: Huyền Thoại và Tội Ác
Giê-Su đã sống đời như thế nào ?
Huyền Thoại Phục Sinh
Nguồn Gốc Huyền Thoại Kitô
Thiên Chúa Allah của Đạo Hồi
Thiên Chúa Ba Ngôi của Đạo Kitô
Thiên Chúa Elohim của Đạo Do Thái
Thiên Chúa Jehovah
Thư Gửi Bạn Nguyễn Thanh Giản (Charlie Nguyễn)
Truy Tầm Jesus Thật
Tấm Vải Liệm




Trang Charlie Nguyễn

http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_CGHT/CN_CGHTdir.php
Về Đầu Trang Go down
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty25/8/2010, 19:36

Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác

Charlie Nguyễn


JESUS ĐÃ SỐNG CUÔC ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?


Cũng giống như Socrate và Khổng Tử, Jesus không viết sách và không ra khỏi đất nước mình. Tất cả những gì chúng ta biết về Ngài đều do bốn cuốn sách phúc âm của Matthew, Luke, Mark, và John. Các cuốn này chỉ kể những gì liên quan đến 3 năm cuối đời của Ngài mà thôi. Ba mươi năm đầu của cuộc đời Jesus không có một sách nào nói tới, ngoại trừ huyền thoại Giáng sinh và chuyện Jesus bị lạc cha mẹ trong dịp lễ Passover ở đền thánh Jerusalem vào năm Jesus lên 12 tuổi. Tóm lại, một khoảng thời gian lớn lao trong cuộc đời Jesus, kéo dài tới 30 năm, cho đến nay vẫn là một ẩn số lịch sử.

Chúng ta chỉ biết rõ một điều là Ngài đã sinh ra và lớn lên với tư cách một công dân Do Thái dưới thời lệ thuộc La Mã, triều đại hoàng đế Augustus. Tuy là người Do Thái nhưng Ngài nói tiếng Aramic của dân tộc Syria là nước ở phía bắc Do Thái. Ngài giảng đạo bằng tiếng Aramic chứ không phải bằng tiếng Hebrew của Do Thái. Khi thân xác còn bị treo trên thập giá, Jesus kêu cứu Thiên Chúa mà ngài gọi bằng Cha "Abba,Abba" là tiếng Aramic. Nhưng điều trớ trêu là không có một cuốn sách phúc âm nào được viết bằng ngôn ngữ chính thức và duy nhất của ngài là tiếng Aramic !. Các bản gốc của các sách phúc âm đều được viết bằng tiếng Hy Lạp từ 35 năm đến 70 năm sau khi Ngài "lên trời". Các tác giả viết về Jesus đều là những người sống xa Ngài cả về không gian lẫn thời gian và hoàn toàn mù tịt về 30 năm cuộc đời son trẻ của Chúa. Người ta gọi thời gian này là "30 năm bí ẩn" hoặc "30 năm thất lạc của Jesus" (The lost years of Jesus).

Phúc âm đầu tiên do Mark viết*: "Đây mở đầu phúc âm của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa" (Here begin the Gospel of Christ, the Son of God) và chuyện mở đầu là lễ rửa tội của Chúa do John the Baptist chủ lễ trên sông Jordan, lúc đó Ngài vừa tròn 30 tuổi.

Thông thường, khi tay chúng ta bị dính dơ thì chúng ta rửa tay. Mọi tín đồ tin mình có tội nên mới xin chịu phép rửa tội. Sau này nghi lễ rửa tội trở thành một thủ tục bắt buộc để nhập đạo. Vào lúc đó, John Baptist (tức Thánh Gioan Baotixita) đang là vị giáo chủ nổi tiếng của giáo phái Essene là một trong ba giáo phái lớn của đạo Do Thái. Trụ sở chính của giáo phái này đặt tại Qumran ở gần Biển Chết (The Dead Sea) và chỉ cách 5 cây số từ trụ sở này đến chỗ Jesus được Gioan Baotixita ban phép rửa tội trên sông Jordan để được chính thức công nhận đã bỏ giáo phái Pharisees để gia nhập giáo phái Essenes (tương tự như người Công giáo đổi đạo sang Tin Lành ngày nay). Sau mỗi đợt thuyết pháp, nhiều tân tín đồ xin theo đạo Essenes đều kéo nhau xuống sông Jordan để cho Gioan Baotixita làm phép rửa tội. Sau đó, các tân tín đồ trở thành những đệ tử chính thức của Gioan Baotixita. Jesus là một trong số những tân tín đồ đó.

Sự kiện Jesus được Gioan Baotixita ban phép rửa tội trên sông Jordan vào lúc Jesus 30 tuổi đã xác nhận chính Jesus cũng tin mình là kẻ có tội tổ tông như niềm tin của mọi người Do Thái khác cùng thời. Jesus, cũng như mọi tín đồ Do Thái, chẳng bao giờ có ý nghĩ sẽ dùng cái chết của mình để xóa tội tổ tông cho chính mình và cho cả loài người. Mọi lý thuyết thần học Ki Tô Giáo về sự Cứu Chuộc (Salvation ) của Jesus đều là chuyện bịa đặt để lường gạt những người nhẹ dạ dễ tin mà thôi.


Phúc âm của John (Gioan Thánh Sử) thì mở đầu bằng cách giới thiệu Jesus là Ngôi Lời và đặc biệt chú trọng đến sự chết và sự sống lại của Jesus. John tuyệt nhiên không đả động gì đến 30 năm tuổi trẻ của Jesus.

Chỉ có Phúc Âm của Matthew và Luke thêm phần "Huyền Thoại Giáng Sinh" mâu thuẫn nhau như đã trình bày nơi chương 3. Riêng một sách Phúc âm của Luke kể thêm: Vào năm lên 12 tuổi, Jesus được cha mẹ dẫn đến đền Thánh Jerusalem dự lễ Vượt Qua (Passover). Nguyên vì gia đình của Jesus từ trước đến lúc đó là tín đồ của giáo phái Pharisees là giáo phái độc quyền chiếm giữ đền thánh Jerusalem. Do đó, mỗi khi đi dự lễ do giáo phái Pharisees tổ chức, cha mẹ Jesus đều dẫn con tới đền thánh này. Theo phúc âm của Luke thì trong dịp này, Jesus đã tỏ ra rất khôn ngoan trong cuộc tranh luận về giáo lý đạo Do Thái với các tu sĩ ở đền thánh Jerusalem (Luke 1: 41-52). Căn cứ theo các phúc âm, chúng ta có thể xác quyết một điều là gia đình Joseph-Maria-Jesus vốn là những tín đồ theo đạo Do Thái thuộc giáo phái Pharisees.

Từ đầu thế kỷ II Trước Công Nguyên (TCN), đạo Do Thái bị phân hóa thành 3 giáo phái chính :

1) Pharisees độc quyền chiếm giữ đền thánh Jerusalem, có số tín đồ đông nhất, lập trường chính trị nói chung là ôn hòa.

2) Sadducess ít tín đồ nhất nhưng rất bảo thủ và cuồng tín cực đoan, chỉ tôn trọng luật viết (written law) của đạo Do Thái và phủ nhận giá trị mọi tục lệ cổ truyền bất thành văn. Judas Escariot theo giáo phái cực đoan này. Về chính trị, Judas và Phê Rô đều là các du kích quân thuộc tổ chức chính trị Zealot với chủ trương tiêu diệt đế quốc La Mã bằng biện pháp quân sự.

3) Essenes giáo phái đông thứ nhì sau Pharisees. Giáo phái này cấp tiến nhất vì đứng về phía người nghèo, chủ trương cộng đồng tài sản giống như kiểu lý thuyết Cộng Sản. Giáo phái này kịch liệt đả kích hai giáo phái trên và kết tội họ là những kẻ đạo đức giả, bóc lột dân nghèo. Sau khi Gioan Baotixita bị vua Herod chém đầu theo lời yêu cầu của bà mẹ người đẹp Salomé, Jesus bắt đầu đi lang thang giảng đạo để tiếp nối con đường của sư phụ. Jesus cũng chửi rủa các giáo phái đối lập với luận điệu y hệt như vị tiền bối quá cố của mình.

Sự kiện Jesus được cha mẹ dẫn đến đền thánh Jerusalem đủ cho ta thấy gia đình Joseph thuộc giáo phái Pharisees của đạo Do Thái. Như vậy, Jesus đã theo giáo phái Pharisees từ nhỏ theo nếp cũ của gia đình cho đến khi trưởng thành mới cải đạo sang giáo phái Essenes của John the Baptist. Jesus cũng như mọi tín đồ Pharisees khác đã được các tu sĩ của giáo phái này dạy dỗ các điều căn bản của giáo lý trong các nhà hội (synagogue) vào các ngày lễ Sabbath. (thứ bảy hàng tuần). Các điều căn bản là: Luật 10 điều răn của Moises (Mai-sen), sách Leviticus tương tự như Sách Bổn Công Giáo, Thiên Chúa Jehovah cao hơn các tà thần khác như Molech, Jupiter, Appollo của Babylon, Ai Cập, La Mã và Hy Lạp v.v...

Jesus tin tuyệt đối vào Kinh Thánh Do Thái. Jesus tuyên bố: "Cho tới khi trời đất hư mất, một dấu chấm trong Kinh Thánh Do Thái cũng không hư mất". (Matthew 5: 18).Riêng lời xác nhận này cũng đủ cho ta thấy trình độ tâm linh của Jesus cũng chẳng khá hơn mấy so với các tín đồ Do Thái cùng thời vì Jesus cũng tin mọi chuyện nhảm nhí trong Cựu ước là những chân lý tuyệt đối !. Jesus tin xác loài người sẽ sống lại vào ngày tận thế. Trong thời gian đi theo John the Baptist sống ở nơi hoang dã, Jesus mặc áo dài trắng giống như các tu sĩ thuộc giáo phái Essenes và tất nhiên đã học hỏi thêm được nhiều điều khác của đạo Do Thái qua sự giải thích của giáo phái này. Do đó, bài giảng nổi tiếng nhất của Jesus được mệnh danh là Bài Giảng Trên Núi (The Sermons on the Mount) tức "Kinh Phúc Thật Tám Mối", là những điều đã được rút ra từ nhiều sách của đạo Do Thái: Genesis, Deuteromony, Exodus, Psalms, Prophets và các sách của giáo phái Essenes đã được các nhà khảo cổ tìm thấy tại Qumran năm 1947. Các tài liệu này gồm hàng trăm cuốn sách bằng da lừa, bằng những thanh gỗ hoặc thanh đồng. Các học giả quốc tế gọi những tài liệu này là "The Dead Sea Scrolls", hiện đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng.

Khoảng năm 25 sau Công nguyên, John the Baptist bị bắt và bị chém đầu do lệnh của vua Herod. Trong lúc còn bị giam trong tù, John đã viết một bức thư và nhờ một lính gác ngục tốt bụng chuyển cho Jesus. Trong thư này, John Baptist gọi Jesus là "kẻ đến sau mọi người" (the coming one after all - Mark 1: 14-15). Sau khi nhận được tin John đã chết, Jesus bắt đầu giảng đạo thay John.

Nơi đầu tiên được diễm phúc nghe Ngài giảng là quê hương Gallilee của Ngài. "Bây giờ, sau khi John bị bắt và bị giết, Jesus đến Gallilee rao giảng tin mừng của Thiên Chúa" (Mark 1: 14-15). Jesus cố gắng thực hiện các lời tiên tri của Isaiah và Daniel để tỏ ra mình là Chúa Cứu Thế (Kitô) mà cả nước Do Thái đã mong đợi từ lâu. "Isaiah là ngọn đèn sáng của Do Thái cho toàn thể loài người. Cuộc đời của Chúa Jesus là để hoàn thành các lời tiên tri của Isaiah về Chúa Cứu Thế" (John 8:12).

Tuy nhiên, có một điều hết sức quan trọng mà Jesus chẳng bao giờ làm hoặc làm không nổi để trở thành Chúa Cứu Thế đúng theo định nghĩa của tiên tri Isaiah là : "Chúa Cứu Thế là Đấng đến để giải cứu mọi kẻ bị áp bức" (to let the oppressed go free - Isaiah 6: 9 và 61 :1- 2). Thực tế cho thấy Jesus chưa bao giờ cứu những người bị áp bức. Vậy Jesus không thể là Chúa Cứu Thế chân chính mà chỉ là Chúa Bịp ! Số người trên thế gian bị đầy ải áp bức sau khi Jesus "cứu chuộc" lại còn đông hơn gấp bội so với số người bị áp bức trước khi Jesus có mặt trên đời này. Chẳng những Jesus đã không giải phóng cho một ai thoát khỏi sự áp bức, trái lại Jesus đã trở thành một tấm bình phong để những thế lực tội ác núp bóng giết hại trên hai trăm triệu người trong hai ngàn năm qua !. Riêng một sự kiện hiển nhiên này cũng đã đủ để đập tan cái luận điệu láo khoét cho rằng Jesus là Chúa Cứu Thế Ki-Tô !.

Jesus đi theo con đường của John Baptist nên Jesus cũng tự biết sớm muộn thế nào cũng bị bắt và bị giết. Ngài tuyển mộ 12 môn đệ để sau này lãnh đạo 12 bộ lạc Do Thái. Về niềm tin tôn giáo, Jesus cũng giống như sư phụ John Baptist, luôn luôn chú trọng kêu gọi mọi người ăn năn tội lỗi và chuẩn bị đón nhận ngày tận thế đã đến gần trong tầm tay (the end of the world is at hand). Ngài hăm dọa mọi người: "Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đến bất thần như kẻ trộm". Jesus đã tiếp nối con đường của John the Baptist với chủ đích tạo lập một khối quần chúng đông đảo gồm toàn những người trong sạch khao khát "nước Chúa trị đến" (purified individuals expecting the kingdom of God). Một khi mạng lưới quần chúng lan rộng trên toàn Do Thái, cuộc nổi dậy thần thánh sẽ giải phóng đất nước Do Thái thoát khỏi ách thống trị của La Mã và bọn chính quyền Do Thái bù nhìn. Bọn bù nhìn gồm có triều đình Herod và Hội Đồng Tối Cao Do Thái (Shanderin) đặc trách các vấn đề tôn giáo và tục lệ. Các tín đồ theo John và Jesus đều tin tưởng rằng: Nước Chúa sẽ phá tan quyền lực của La Mã. Sức mạnh vật chất của dân tộc Do Thái không đủ để lật đổ bạo quyền nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa. Mọi người cần phải giữ linh hồn trong sạch để được xứng đáng đón nhận nước Chúa sắp đến. Một khi nước Chúa trị đến, cuộc sống thanh bình hạnh phúc của toàn dân tự nhiên sẽ được thực hiện. John the Baptist và Jesus là những nhà tiên tri dỏm về ngày tận thế (False apocalyptic prophets) có tham vọng khôi phục vương quốc Do Thái với chủ thuyết ngày tận thế sắp đến để kích động tâm lý quần chúng. Cái ngày tận thế "sẽ đến trong tầm tay" của hai thầy trò Jesus chưa bao giờ xảy ra và sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Thế gian này vẫn sống mãi cho đến khi nào mặt trời nguội đi. Nếu có một ngày nào đó sẽ là ngày tận thế thì đó chính là ngày tận thế của cái giáo hội ác ôn bịp bợm tôn thờ Jesus!.

Jesus không hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng vì cũng có lúc Jesus đã hình dung ra một sự rối loạn và phân tán của dân tộc Do Thái. Jesus nói: "Các ngươi tưởng rằng ta đến để mang hòa bình cho trái đất sao? Không đâu, ta bảo thật, ta chỉ mang đến sự phân tán" (Do you think that I have come to bring peace to the earth? No, I tell you, but rather division! - Luke 12: 51-53).

John the Baptist và Jesus không phải là những người đầu tiên dùng chủ thuyết "ngày tận thế" để kích động quần chúng, Tám thế kỷ trước Jesus, Isaiah đã dùng chủ thuyết này với mục đích cải tạo xã hội và bản thân Isaiah đã được dân Do Thái tôn kính như Messiah (Chúa Kitô). Đến khi John và Jesus xuất hiện, nhiều người Do Thái đã coi John và Jesus là Messiah hoặc "Isaiah tái thế". Chính vì vậy, khi Jesus cưỡi con ngựa nhỏ về Jerusalem, một đám đông quần chúng đã tung hô "Vinh danh Đấng đã nhân danh Thiên Chúa mà đến" (Blessing on Him who comes in the name of God - Mark 11: 9-10). Trong phiên xử tại đền thờ Jesuralem (người Do Thái chỉ được phép xét xử các tội liên quan đến tôn giáo), tu sĩ cao cấp của đền thờ hỏi Jesus: "Ông có phải là Chúa Kitô không?" (Are you the Messiah?) Jesus trả lời: "Phải" (yes, I am - Mark 14: 61).

Tội của Jesus đã được xác định về phương diện tôn giáo vì Jesus đã dám mạo nhận là Con Trai Duy Nhất của Thiên Chúa (The Only Son Of God) . Theo giáo lý và tục lệ Do Thái thì sự mạo nhận này là một tội xúc phạm nặng nề đến đạo Do Thái. Tuy nhiên, các tu sĩ Do Thái không có quyền đưa ra một hình phạt hình sự nào đối với Jesus, do đó họ đã giao Jesus cho quan toàn quyền La Mã Poncius Pilate xét xử.

Vào lúc này, tại Jerusalem đang cử hành đại lễ Vượt Qua (Passover) là một ngày lễ kỷ niệm trọng đại, vừa có tính cách lễ trọng của tôn giáo, vừa là ngày quốc khánh của Do Thái. Số dân chúng từ khắp nơi đổ về thủ đô Jerusalem hết sức đông, đến nỗi các bải trống chung quanh thủ đô cũng không có đủ chỗ cho khách hành hương dựng lều trại. Quan toàn quyền Pilate phải đem quân từ thành phố Cesarea về tăng cường bảo vệ an ninh cho thủ đô. Đã từ lâu, Pilate để tâm theo dõi nhóm tôn giáo mới của John the Baptist và Jesus, coi nhóm này là một nhóm chính trị chống La Mã (Anti-Roman Political group). Trong số các môn đệ của Jesus có nhiều người là du kích quân của đảng chính trị Zealot như Judas Iscariot và Peter (Phêrô). Peter có tục danh là "Simon the Zealot"- Mark 3:18). Jesus tự nhận là Messiah đồng nghĩa với "Vua của Do Thái" và công khai chống lại La Mã. Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái đã định nghĩa Messiah như sau: Messiah là Vua David Mới, Ngài sẽ chiến thắng mọi kẻ thù của Do Thái và tái lập trật tự ở Jerusalem" (Messiah is New King David. He would subdue Israrel's enemies and set up his rule in Jerusalem).

La Mã và chính quyền Do Thái chỉ nhìn Jesus trên khía cạnh chính trị của truyền thuyết Kitô (the political view of messiah). Họ cho rằng Jesus và phe nhóm đã lợi dụng lúc đồng bào Do Thái qui tụ đông đảo tại Jerusalem trong dịp lễ Pasover (Lễ Vượt Qua) để dấy lên cuộc đảo chánh núp dưới chiêu bài tôn giáo. Jesus cưỡi ngựa vào Jerusalem, tự xưng là Messiah vua Do Thái. Hơn nữa, Jesus còn công khai vào đền thờ Jerusalem đánh đuổi những người bán hương liệu và các thứ lễ vật cho khách hành hương, lật đổ các bàn ghế của những người đổi tiền vì khách hành hương đến đây từ nhiều nước khác cần phải đổi tiền của nước họ để có tiền Do Thái chi tiêu trong ngày lễ. Tất cả các sự việc trên đã dẫn đến cái chết của Jesus với tội danh "âm mưu lật đổ chính quyền". Trên cây thập giá, lính La Mã đã ghi rõ cái ý nghĩa chính trị của huyền thoại Kitô (the political view of Messiah): Jesus Nazareth, vua Do Thái (Mark 15: 26). Trong các ảnh tượng Chúa ở nhà thờ, dòng chữ này thường được ghi vắn tắt là "INRI".

Trong tác phẩm nghiên cứu công phu về cuộc đời thật của Jesus mang tựa đề ngắn gọn chỉ một chữ: JESUS (Humphrey Carpenter, Oxford University Press, second edition 1983) tác giả đã đi đến hai nhận định sau đây:

1. Jesus cũng như John đã bị giết chết không vì một lý do nào khác ngoài lý do chính trị.

2. Jesus và những kẻ theo ông ta không phải là những kẻ có tinh thần nhân đạo vì họ không lo phục vụ con người mà chỉ lo phục vụ cho cái quan niệm sai lầm về Thiên Chúa của họ. Họ làm như vậy vì họ tin theo các luật đạo Do Thái và lời nói của các thánh tiên tri (mà thực chất chỉ là những huyền thoại không có thật). Họ không hề tự hỏi tại sao phải làm như vậy, họ chỉ biết tuân theo các luật đạo một cách mù quáng máy móc vì họ chẳng bao giờ chịu vận dụng tới trí tuệ của họ." (Jesus and his fellow Jews were not humanists because they serve not man but God. They did this by obeying the Commandements of the Law and the words of their prophets, without questioning why. Their obedience was blind and mechanical, for their intellect was not involved in it).


--------------------------------------------------------------------------------
Các chương khác trong sách:
Abraham: Ông Tổ của các Đạo Chúa
Bí Mật Ở Núi Sọ
Con Bạch Tuột của Đức Chúa Trời
Các Khố của Giê Su Trên Thập Giá
Các Tu Sĩ Dòng Tên (Charlie Nguyễn)
Các Yếu Tố Hình Thành Kitô Giáo
Các Đạo Thờ Thiên Chúa và đạo Thờ Bò
Cái Nôi của Các Đạo Chúa
Công Giáo: Huyền Thoại và Tội Ác
Giê-Su đã sống đời như thế nào ?
Huyền Thoại Phục Sinh
Nguồn Gốc Huyền Thoại Kitô
Thiên Chúa Allah của Đạo Hồi
Thiên Chúa Ba Ngôi của Đạo Kitô
Thiên Chúa Elohim của Đạo Do Thái
Thiên Chúa Jehovah
Thư Gửi Bạn Nguyễn Thanh Giản (Charlie Nguyễn)
Truy Tầm Jesus Thật
Tấm Vải Liệm




Trang Charlie Nguyễn


Về Đầu Trang Go down
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty25/8/2010, 19:37

Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác

Charlie Nguyễn


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐỂ TRUY TẦM "JESUS THẬT"




Giáo sư Dominic Crossan là người Ái Nhĩ Lan, tu sĩ dòng Servite, chịu chức linh mục năm 1957. Sau đó ông được giáo hội cử đi học tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh ở Rome và học thêm về Khảo cổ học tại Đại Học Jerusalem. Sau 12 năm nghiên cứu lịch sử đạo Kitô, thấy rõ được những sự thật lịch sử đã bị che dấu bởi những huyền thoại và các thủ đoạn bịp bợm của Vatican. Linh Mục Crossan đã cởi áo dòng viết sách, dạy đại học, thuyết trình trên các đài truyền thanh và truyền hình tại nhiều nước trên thế giới, với mục đích duy nhất là vạch ra cho mọi người thấy một phương pháp nghiên cứu lịch sử để tìm cho ra Chúa Jesus thật với những chứng tích có thật trong lịch sử (The Real Historic Jesus).

Năm 1991, Crossan cho ra đời tác phẩm đồ sộ tựa đề The Historical Jesus. Cuốn sách này mau chóng được các nước Âu Mỹ đón nhận và trở thành cuốn sách đứng đầu danh sách best-seller năm 1991. Cuốn thứ hai của ông: Jesus: A revolutionary Biography đứng hàng đầu danh sách best-seller năm 1994. Nhiều độc giả từ khắp năm châu tới tấp gửi thư hỏi ông về đủ mọi vấn đề liên quan đến Jesus. Ông đành phải viết cuốn Who is Jesus để trả lời chung cho độc giả (Harper-Colllins xuất bản 1996).

Giáo sư Crossan phân biệt hai Jesus: Jesus của niềm tin (Jesus of Faith) là đồ giả, chỉ có Jesus lịch sử là Jesus thật (The Real Jesus). Để truy tầm Jesus thật, chúng ta phải có phương pháp nghiên cứu lịch sử. Phương pháp đó có thể tóm tắt như sau:

1. Nghiên cứu bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó Jesus sống (the cross social and cultural study). Bối cảnh đó là tổ chức xã hội Địa Trung Hải cách đây 2000 năm. Vào thời đó, xã hội Địa Trung Hải chỉ có hai giai cấp là "giai cấp thượng lưu có học thống trị" và "giai cấp dân quê thất học bị trị", tuyệt đối không có giai cấp trung lưu. Jesus không thuộc giai cấp thống trị vì nếu thuộc giai cấp này thì dù Jesus có can trọng tội cũng không bị đóng đinh. Khổ hình đóng đinh trên thập giá chỉ dành cho giai cấp bị trị mà thôi. Vậy "Jesus thật" là một dân quê thất học (illiterate peasant).

2. Nghiên cứu các tài liệu lịch sử học, chứ không phải là Kinh Thánh (historical study). Các tài liệu lịch sử đáng tin cậy là các sử liệu được thực hiện bởi các sử gia thuần túy không liên hệ gì đến tôn giáo, đặc biệt là sử gia La Mã gốc Do Thái Josephus.

3. Đối chiếu các văn bản (textual study) để phát hiện các điều mâu thuẩn nhờ đó tìm ra được đâu là chuyện thật, đâu là chuyện phịa hoặc xuyên tạc. Đây là một công việc khó khăn đòi hỏi người nghiên cứu phải kiên nhẫn và tỉ mỉ như một nhà khảo cổ hoặc nhà phân chất trong viện hóa học. Điều quan trọng hơn cả là tinh thần khách quan của một nhà sử học chân chính, chỉ có một thành tâm duy nhất là tái tạo hình ảnh Jesus một cách trung thực đúng theo những điều đã xảy ra trong quá khứ.

Giáo sư Crossan đã hiến 40 năm của cuộc đời ông cho công việc tìm kiếm và phác họa lại hình ảnh của Jesus thật. Tất nhiên hình ảnh thật của Jesus hoàn toàn khác với hình ảnh đã được mô tả trong Kinh Thánh vì nó chỉ đúng với bản chất thật của Ngài (the Essential Jesus) chứ không thể phù hợp với lòng ngưỡng mộ của những kẻ tôn thờ Ngài (not the cultic Jesus). Nếu những điều viết sau đây có làm phật ý những tín đồ đạo Kitô thì cũng chỉ là một điều ngoài ý muốn.

Điều quí trọng nhất trên đời này là "sự thật" chứ không phải là "điều chúng ta muốn nó phải là sự thật". Sau đây là 2 thí dụ điển hình về phương pháp nghiên cứu của giáo sư Crossan:


A) HUYỀN THOẠI GIÁNG SINH:


Mỗi lần đến mùa Noel, người ta bày hang đá với đèn ngôi sao, một máng cỏ có Chúa Hài Đồng Jesus, bà Maria quì gối chắp tay thờ lạy đứa con do mình mới đẻ ra. Ông Joseph có vẻ già nua, chống gậy đứng xa xa vì tự biết thân phận mình không có vinh dự được làm cha Thiên Chúa nên đành chấp nhận cái địa vị thấp bé nhất trong gia đình thánh (Holy Family). Ngoài hang đá lấp ló 3 ông vua từ phương Đông đến để dâng cúng hương liệu và quà cáp cho vị Thiên Chúa giáng trần. Sát bên máng cỏ có mấy chú mục đồng với mấy con bò, cừu và lừa đang lo hà hơi nóng sưởi ấm cho Chúa trong đêm đông lạnh lẽo. Phía trên hang đá có mấy tấm hình thiên thần ca hát "vinh danh Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm".

Đó là hoạt cảnh Noel được pha trộn tổng hợp từ hai cuốn Tân Ước của Mathew và Luke đầy ắp những hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau. Hai cuốn Tân Ước khác của John và Mark thì chẳng nói gì về việc giáng sinh của Chúa cả.

Ta hãy so sánh song song những chuyện về Giáng Sinh kể trong 2 cuốn Tân Ước:


- Thiên thần hiện ra với Joseph báo tin vợ có mang.

- 3 vua theo sao lạ đi tìm chúa Hài Đồng.


- Chúa sinh trong nhà (in the house)

- 3 vua kể cho Herod nghe về việc Chúa sinh ra nên Herod ra lệnh giết các trẻ sơ sinh Do Thái.


- Josep đưa vợ con trốn sang Ai Cập để tránh Herod sát hại. Chỉ trở về Do Thái khi có lệnh của Thiên Thần. Sau đó Matthew quên luôn, không nói thánh gia trở về lại Do Thái khi nào.

- Thiên thần hiện ra với bà Mary.


- Không nói tới 3 vua, chỉ nói tới mục đồng. Không có sao lạ.

- Chúa sinh trong máng cỏ (manger) ở hang núi.

- Không nói tới Herod, nhưng lại nói gia đình Chúa về Nazareth vì có lệnh kiểm tra dân số toàn đế quốc (chuyện này không hề có)


-Sau khi sinh được 8 ngày, Mary và Joseph đưa Jesus đến đền thờ Jerusalem chịu phép cắt bì (circumcisation).

-Không trốn sang Ai Cập

-Không bị Herod săn bắt!


Hai cuốn Thánh Kinh đều được coi là chân lý tuyệt đối. Vậy cuốn nào nói đúng, cuốn nào nói láo hay cả hai đều phịa? Chẳng lẽ có hai chân lý trái ngược nhau? Vậy chân lý cuối cùng chỉ có thể là chuyện giáng sinh của Chúa chỉ là chuyện tầm phào bá láp. Matthew luôn luôn dẫn chứng cho những điều ông viết là những điều được tiên tri trong Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước) cốt để chứng tỏ Jesus là đấng Messiah (Kitô) thật. Chẳng hạn khi viết về việc Chúa Jesus Đức Mẹ Đồng Trinh được sinh ra, Matthew dẫn chứng lời tiên tri của Isaiah từ 800 năm trước (Isaiah 7:14). Nhưng khi tra cứu Cựu Ước thì thấy Isaiah dùng tiếng Hebrew "almah" có nghĩa là trẻ (young) chứ không hề có ý nghĩa đồng trinh (virgin).

Vào thế kỷ II sau Công Nguyên, triết gia Hy Lạp Cellus đã truy tầm lai lịch thật của Jesus và đã phát hiện việc bà Mary bị lính La Mã hiếp dâm. Theo triết gia Celsus thì thủ phạm hiếp dâm bà Maria là một người lính La Mã tên Panthera. Do tên người lính này mà dân Hy Lạp đã chế ra tĩnh từ "Parthenos" để chế nhạo những người tin bà Maria Đồng Trinh . Thay vì gọi tên bà Maria là Đức Mẹ Đồng Trinh (Virgin Mother) thì người Hy Lạp gọi Đức Mẹ là "Parthenos Mother" nghĩa là Đức Mẹ Bị Tên Lính Panthera Cưỡng Hiếp ,đồng thời cũng để chế diễu Matthew đã xuyên tạc chữ ALMAH trong thánh kinh. (A pagan philosopher named Celsus, writing near the end of the second century, claims that the illegitimate father was a Roman soldier named Panthera. In that name we perhaps hear a mocking allusion to the word "Parthenos", the Greek, for the young Hebrew ALMAH from Issaiah 7 : 14 - Who is Jesus p.21)

Luke viết Tân Ước sau Matthew cũng bắt chước dẫn chứng Kinh Thánh Cựu Ước. Matthew nói Chúa Jesus được sinh ra trong căn nhà của gia đình Joseph tại Nazareth. Nhưng vì thấy Kinh Cựu Ước của tiên tri Micah nói "Chúa Kitô sẽ sinh ra tại Bethlehem (Micah 5:2) nên Luke viết: "Chúa Jesus sinh ta tại Bethlehem trong một máng cỏ ở nơi hoang dã". Vậy phải bịa chuyện cho gia đình Joseph có lý do để đi từ Nazareth đến Bethlehem. Luke bịa chuyện như sau: "Vì có cuộc tổng kiểm tra dân số trong toàn đế quốc La Mã do lệnh của hoàng đế Augustus nên gia đình thánh Joseph phải trở về quê quán tại Bethlehem và Chúa Jesus đã được sinh ra tại đó cho đúng với lời tiên tri". Các học giả nghiên cứu lịch sử La Mã và Do Thái không hề thấy một cuộc kiểm tra dân số nào như vậy. Chỉ có cuộc kiểm tra dân số tại địa phương Do Thái vào năm thứ 6 sau Công Nguyên, lúc đó Jesus đã lên 10 tuổi. Cuộc kiểm tra này diễn ra tại chỗ, không một ai bị buộc phải trở về quê cũ!

Luke thấy Cựu Ước (Isaiah 1:3) có câu "Con bò, con lừa còn biết chủ của nó là ai, thế mà nhiều người dân Do Thái không biết". Luke vớ ngay lấy câu này và cho đó là lời tiên tri về việc Chúa hài đồng Jesus nằm trong hang đá lạnh lẽo được bò và lừa đến hà hơi sưởi ấm (Luke 2: Cool Theo Matthew thì lúc Chúa sinh ra có một ngôi sao lạ dẫn đường cho 3 vua phương Đông đến thờ kính Ngài. Thực ra chẳng có một ngôi sao lạ nào dành riêng cho sự sinh ra của Jesus.

Theo nghiên cứu của thiên văn học thì cứ tuần tự một chu kỳ 805 năm, ba hành tinh Kim, Hỏa, Thổ (Mars, Saturn, Jupiter) sẽ cùng nằm trên một đường thẳng với trái đất. Do đó, từ trái đất ta nhìn thấy 3 hành tinh này như hội tụ lại với nhau tạo thành một điểm sáng lớn đặc biệt. Nhà thiên văn học Johannes Kepler đã tính toán và xác định hiện tượng này xảy ra vào năm thứ 6 trước Công Nguyên, tức là thời gian Jesus ra đời. Như vậy năm 1994 là Jesus 2000 tuổi chẵn.

Lịch sử Ba Tư đã ghi nhận sự kiện "sao lạ" nói trên và mô tả dư luận quần chúng thời đó rất xôn xao vì nhiều người cho đó là dấu hiệu của ngày tận thế. Matthew chộp lấy chuyện này cho vào chuyện của Jesus, biến "sao lạ" thành người dẫn đường cho 3 vua đến nhà (house) của gia đình Joseph tại Nazareth chứ không phải là đến hang lừa tại Bethlehem

Dụng ý của Matthew và Luke muốn người đọc sách Tân Ước có cảm tưởng việc ra đời của Jesus là một biến cố giáng sinh của thần linh (divine birth). Trong thần thoại cổ La Mã và Hy Lạp không thiếu gì những chuyện "giáng sinh thần thánh" tương tự. Những chuyện phịa như vậy thực sự chẳng có gì đáng trách hay đáng phải đem ra bàn luận. Điều khiến chúng ta phải đem ra bàn vì người Kitô Giáo muốn chiếm độc quyền cái "giáng sinh thần thánh" ấy dành cho một mình Jesus. Tư tưởng độc quyền là nguyên nhân dẫn đạo Kitô đến những tội ác tày trời đối với nhân loại.

Giáo sư Crossan viết: "Không một tôn giáo nào có độc quyền thánh thiện, độc quyền thiêng liêng. Những tư tưởng độc quyền đó dẫn đến động lực phạm tội diệt chủng. Độc đoán một chiều chỉ có nghĩa là buộc mọi người khác phải chết". (No religion can claim monopoly on the holy, the sacred or the divine. Such monopolitic claim there lived embedded a genocidal impulse. One way alone can be absolutely right is for all others to be dead).


B) MỐI QUAN HỆ GIỮA JESUS VÀ GIOAN BAO-TI-XI-TA


Mối liên hệ giữa John (Gioan Bao-ti-xi-ta) và Jesus có tầm mức rất quan trọng. Trên thực tế, John là cậu họ của Jesus và hơn Jesus 6 tháng tuổi. John là người đã rửa tội cho Jesus để cải đạo từ phái Pharisee sang phái Essene, tương tự như cải đạo từ Công Giáo sang Tin Lành ngày nay. Jesus là đồ đệ của John tức ở vị thế thấp hơn. Do đo, các sách Tân Ước phải lật ngược lại để Jesus có vị thế cao hơn John. Chúng ta hãy so sánh:


Jesus

- Jesus được sinh ra bởi bà mẹ đồng trinh, trẻ tuổi.

- Tên Jesus do thiên thần Gabriel báo tin cho Joseph phải đặt theo lịnh của Đức Chúa Trời.

- Thầy cả lúc làm phép cắt bì cho đúa bé 8 ngày tuổi đã biết trước công nghiệp cứu thế đứa bé sau này. John the Baptist

- Bà Elizabeth (I-sa-ve) già nua tương tự như cụ bà Sarah, vợ của Abraham, sinh ra Isaac.

- Tên John do cha mẹ đặt cho.

- Sự xuất hiện trước của John chỉ là để dọn đường cho Chúa Cứu Thế (Gioan Tiền Hô)


Jesus rao giảng những điều đã học được từ John sau 3 năm đi theo ông này học đạo. Sau khi John bị vua Herod giết, Jesus tiếp tục sự nghiệp của thầy mình. Trước đó, Jesus chỉ là một kẻ hạ tiện thất học mà thôi. Các sách Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp đã dùng danh từ "tekton" để nói về nghề nghiệp của Jesus trước khi được John rửa tội. Tekton là thứ thợ làm đủ việc tay chân (day labor) và không có một nghề chuyên môn. Đó là nghề của loại dân hạ tiện (outcast). Theo sử sách Hy lạp và Do Thái thì vào thời Jesus, 97% dân Do Thái thất học và sinh sống bằng nghề "tekton" giống như Jesus vậy.

Các sách giáo lý Kitô nói Jesus đã lập ra các phép bí tích, nhưng sự kiện Jesus được John rửa tội là một bằng cớ hùng hồn chứng tỏ Jesus không phải là người lập ra phép bí tích này. Ngoài ra, giáo hội Kitô tỏ ra rất bối rối về lý do nào Jesus phải chịu phép rửa tội. Phải chăng Jesus cũng tự nhận mình là kẻ có tội như mọi người? Tại sao Jesus không trực tiếp xin Chúa cha tha tội? Nếu Jesus tự biết mình là Thiên Chúa, tại sao lại phải chịu phép rửa?

Sau khi kể chuyện John rửa tội cho Jesus trên sông Jordan, chỉ cách trụ sở của giáo phái Essens ở Qumran 5 km, Mark đã viết thêm: Ở trên trời lúc đó có con chim bồ câu trắng hiện ra và có tiếng nói của Thiên Chúa: "Đây là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng". Sách Tân Ước của John viết "John là người làm chứng Jesus là con Thiên chúa!"

Sử gia vô tư đáng tin cậy là Josephus (37-100). Ông là con một gia đình quí tộc Do Thái, được gửi sang Rome du học nhiều năm và trở thành công dân La Mã. Bạn học với ông sau này nhiều người làm tướng hoặc quan chức cao cấp của La Mã. Cuối đời, ông trở về sống tại Jerusalem. Ông rất am tường tình hình chính trị và xã hội của cả hai phía La Mã và Do Thái. Về Gioan Bao-ti-xi-ta, ông ta viết: "Gioan là một tu sĩ giảng đạo rất hùng biện. Những bài giảng của Gioan thu hút đông đảo quần chúng khiến số tín đồ của ông càng ngày càng đông đến nỗi đã khiến cho vua Herod rất lo sợ. Nếu đám đông bị Gioan kích động sẽ trở thành một cuộc dấy loạn chống La Mã và chính quyền bù nhìn Herod. Hậu quả tai hại sẽ không thể lường được vì tới lúc đó muốn dẹp cũng không thể được nữa. Do đó Gioan đã bị Herod ra lệnh bắt và chém đầu".

John (Gioan) rao giảng "nước Chúa" sắp đến, mọi người phải ăn năn và chuẩn bị sẵn sàng. Mục đích tối hậu của John là lập ra một tập thể tín đồ đông đảo, tạo thành một mạng lưới rộng khắp Do Thái để thực hiện một cuộc nổi dậy thần thánh đánh đuổi La Mã và lật đổ chính quyền bù nhìn Do Thái, tái lập "nước Chúa" theo mô hình Israel dưới thời các minh quân như David, Salomon. Khi Jesus gia nhập giáo phái Essens của John, Jesus thấy mạng lưới tín đồ của John rất đông đảo và rộng khắp Do Thái. Jesus đã khen ngợi John là một vị lãnh đạo cao cả. Sách Tân Ước của Matthew (11:11) và Luke (7:28) đều viết: "Không một ai được sinh ra bởi đàn bà có thể lớn hơn John" (no one born of woman is greater than John).

Tất cả những điều Jesus rao giảng chẳng phải của chính Jesus mà là những điều Jesus học mót của thầy là Giaon Baotixita. Jesus cũng không phải là người lập ra đạo Kitô. Giáo phái Essens của John chính là tiền thân của đạo này, vậy các học giả Tây phương gọi giáo phái Essens là "Đạo Kitô trước Jesus".




--------------------------------------------------------------------------------
Các chương khác trong sách:
Abraham: Ông Tổ của các Đạo Chúa
Bí Mật Ở Núi Sọ
Con Bạch Tuột của Đức Chúa Trời
Các Khố của Giê Su Trên Thập Giá
Các Tu Sĩ Dòng Tên (Charlie Nguyễn)
Các Yếu Tố Hình Thành Kitô Giáo
Các Đạo Thờ Thiên Chúa và đạo Thờ Bò
Cái Nôi của Các Đạo Chúa
Công Giáo: Huyền Thoại và Tội Ác
Giê-Su đã sống đời như thế nào ?
Huyền Thoại Phục Sinh
Nguồn Gốc Huyền Thoại Kitô
Thiên Chúa Allah của Đạo Hồi
Thiên Chúa Ba Ngôi của Đạo Kitô
Thiên Chúa Elohim của Đạo Do Thái
Thiên Chúa Jehovah
Thư Gửi Bạn Nguyễn Thanh Giản (Charlie Nguyễn)
Truy Tầm Jesus Thật
Tấm Vải Liệm






Trang Charlie Nguyễn


Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





 Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và    Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Tội ÁcCông Giáo Huyền Thoại và
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Lá Thư (1) Gửi Quí Vị Cựu Giáo Sư Và Học Sinh
» Cô giáo đốt nhà ra tòa ‘đổ tội’ cho cảnh sát
» PHÁP LỆNH TÔN GIÁO
» Nữ giáo viên lén lút quan hệ với 900 học sinh nam
» Những Thế Lực Đen Tối Trong Giáo Hội Việt Nam

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Liên Minh SVN :: Sách-
Chuyển đến 
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search