Liên Minh SVN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Liên Minh SVN

Liên Minh Các Lực Lượng Quốc Gia Việt Nam
 
CổngCổng  Trang ChínhTrang Chính  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng Nhập  Đăng kýĐăng ký  Sách HiếmSách Hiếm  TiViTiVi  Diễn Đàn Liên KếtDiễn Đàn Liên Kết  
--------------------------------------- Lực Lượng Dân Tộc Cực Đoan Việt Nam -------------------------- Cộng sản hay không cộng sản ? Chúng tôi là những người yêu nước luôn muốn chống lại những thế lực phá họai một đất nước tự do ! Trả thù lại những gì bọn ngọai bang đã gây ra cho đất nước chúng ta ! Thù hận những kẻ thù đã gây ra tang thương cho dân tộc giống nòi việt nam ! Luôn mong muốn trả thù cho dân tộc !
Cộng sản hay không, một lực lượng đã thành công đánh đuổi được thực dân, mang lại độc lập và thống nhất cho đất nước mà là “Việt Gian”, vậy thì tổ chức tôn giáo của những người Việt hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang, đi làm tay sai cho thực dân Pháp để đưa nước nhà vào vòng nô lệ thì gọi là gì ? Là những người “yêu nước” hay sao?
Có bao giờ chúng ta đặt một câu hỏi cho chính chúng ta, những người quốc gia, là nếu những điều chúng ta viết ở hải ngoại trong những chiến dịch “tố Cộng” là đúng, thì làm sao CS có thể thắng trong cả hai cuộc chiến?

 

 ẤP CHIẾN LƯỢC

Go down 
Tác giảThông điệp
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
ẤP CHIẾN LƯỢC  Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

ẤP CHIẾN LƯỢC  Empty
Bài gửiTiêu đề: ẤP CHIẾN LƯỢC    ẤP CHIẾN LƯỢC  Empty20/8/2010, 13:33

ẤP CHIẾN LƯỢC

Lê Xuân Nhuận

Mục lục các bài liên hệ với chế độ Ngô Đình Diệm
19 tháng 8, 2010

Có một số người cho rằng Chương-Trình Ấp Chiến-Lược đã giúp chính-quyền Ngô Đình Diệm bình-định xứ-sở, triệt-tiêu cộng-sản, đem lại đời sống an-bình cho dân-nhân Miền Nam dưới chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa; và “cha đẻ” của Chương-Trình được gọi là Quốc-Sách ấy chính là Cố-Vấn Ngô Đình Nhu (sic).

Theo họ thì sau cuộc Cách-Mạng 1-11-1963, vì Trung-Tướng Dương Văn Minh đã hủy bỏ quốc-sách Ấp Chiến-Lược nên cộng-sản mới có thể dễ-dàng lấn chiếm và đánh thắng Miền Nam (sic).

Sự Thật là “Ấp Chiến-Lược” bị hủy-bỏ bởi Sắc Luật số 103/SL/CT, do Thủ-Tướng Nguyễn Khánh ký ngày 9 tháng 3-1964 (xem Tham-Chiếu 1).

Để các thế-hệ sau này hiểu biết chính-xác về thực-chất của Chương-Trình Ấp Chiến-Lược, ta hãy tìm đọc các tài-liệu lịch-sử ‒ mà các cá-nhân nói trên đã không biết đến, hoặc đã cố-ý không đề-cập đến mà còn tự-ý thêm-thắt bịa-đặt ra ‒ hầu bắt mọi người phải nghe những lời ca-tụng vu-vơ dựa trên những điều không hề xảy ra.

*

Nhưng, trước tiên, tôi xin nói về những gì mà chính bản-thân tôi biết được về Ấp Chiến-Lược.



Trái: hàng rào ấp chiến lược (ảnh dodungdayhoc.books.officelive.com)
Phải: Dân ngồi phơi ngoài nắng trong một ấp chiến lược (ảnh security.dantri.com.vn)

Từ năm 1954, nhất là sau khi Đức Quốc-Trưởng Bảo Đại bổ-nhiệm và Ông Ngô Đình Diệm đã nhậm chức Thủ-Tướng Quốc-Gia Việt-Nam, việc làm của tôi quá nhiều và quá “quan-trọng”.

Vừa là biên-tập-viên (góp bài cho “Tuần-Báo Tiếng Kèn”; viết “Mục Thời-Luận”, trả lời “Thư Thính-Giả”, soạn bài “Quân-Nhân Tìm Hiểu”, giới-thiệu tân+cổ Nhạc Việt-Nam và “Nhạc Ngoại-Quốc” hằng ngày cho Đài Quân-Đội; tóm-lược tình-hình cho nhật-báo “Bản Tin”; viết bài phóng-thanh cho “Đại-Đội Võ-Trang Tuyên-Truyền”; viết các bài bình-luận đặc-biệt để Trưởng Phòng Năm Quân-Khu sử-dụng tại các nơi khác; kể cả thảo diễn-văn cho các Tư-Lệnh Quân-Khu), tuyên-truyền-viên lưu-động, phóng-viên chiến-tranh (war correspondent), thuyết-trình-viên tại các buổi “Học Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”, v.v..., tôi còn là giám-đốc Chương-Trình Phát-Thanh hằng ngày “Tiếng Nói Quân-Đội” ‒ cho khắp Đệ-Nhị Quân-Khu (từ Tỉnh Quảng-Trị vào Tỉnh Bình-Thuận, tức là cả Quân-Khu I lẫn Quân-Khu II sau này).

Công-việc quá nhiều đến nỗi tôi được chỉ-định mà không thể đến giảng môn “Tác-Động Tinh-Thần” (tiền-thân của Tâm-Lý-Chiến tức Chiến-Tranh Tâm-Lý, và về sau là Chiến-Tranh Chính-Trị) tại “Trường Sĩ-Quan Đập Đá” (nơi xuất-thân của thiếu-úy ‒ về sau là trung-tướng ‒ Trần Văn Trung), cũng như tại lớp đào-tạo “Tình-Báo Ấp Chiến-Lược” ở gần vùng Phủ Cam.

Việc làm quá “quan-trọng” ‒ góp phần tích-cực và hữu-hiệu củng-cố địa-vị của (Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống) Ngô Đình Diệm ‒ đến nỗi Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu đã đề-nghị Bộ Tổng-Tham-Mưu ban thưởng cho tôi “Quân-Công Bội-Tinh” ‒ là một huân-chương chỉ dành cho các sĩ-quan tràn-đầy chiến-công và dạn-dày thâm-niên, trong lúc tôi chỉ là một quân-nhân trừ-bị ‒ “văn-nghệ-sĩ và ký-giả” mà “được” “động-viên chuyên-môn” (như các nhạc-sĩ Lâm Tuyền, Văn Giảng, Lê Trọng Nguyễn, v.v... trong Ban Tân-Nhạc thuộc Đài của tôi). Tuy không được cấp mề-đay, nhưng việc đề-nghị như thế chứng-tỏ Miền Trung đã đánh giá tôi “cao” đến ngần nào.

Nhắc lại chuyện cũ dài-dòng là để nhấn mạnh một điểm: trong khoảng 1954-1956 (2 năm nhiệm-kỳ quân-dịch pháp-định cộng với 6 tháng lưu-dụng vì nhu-cầu quân-vụ) của tôi, đã có ít nhất là một Lớp Đào-Tạo cán-bộ “Tình-Báo Ấp Chiến-Lược” được mở ra tại Huế.

Tóm lại, “Ấp Chiến-Lược” đã có nằm trong chương-trình hoạt-động của chính-quyền Ngô Đình Diệm, do Cố-Vấn Hoa-Kỳ, đặc-biệt là Đại-Tá CIA Edward G. Lansdale (xem Tham-Chiếu 2) đề ra, chậm nhất là từ năm 1956 rồi.

*

Thế nhưng...

Mãi đến ngày 3 tháng 2 năm 1962 (8 năm sau ngày chấp-chánh), sau khi chế-độ đã suy-thoái rồi, Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu) mới áp-dụng Chương-Trình “Ấp Chiến-Lược” (xem Tham-chiếu 3)

*

Năm 1962, tôi được đưa đi thụ-huấn một khóa tình-báo đặc-biệt (là khóa cao-cấp đầu tiên mà CIA huấn-luyện cho một số viên-chức Cảnh-Sát Công-An, Phó Đốc-Sự Hành-Chánh, và sĩ-quan Quân-Lực VNCH được chọn-lọc kỹ). Sau đó, tôi được sung vào một tổ-chức, về phía dân-sự, gọi là “Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt” (SOC= Special Operations Corps) ‒ không phải là “Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt Miền Trung” của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn do Ông Dương Văn Hiếu cầm đầu. Đoàn SOC này, trực-thuộc Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương về mặt chuyên-môn, và được sự yểm-trợ của Nha Tổng-Giám-Đốc Cảnh-Sát & Công-An về mặt hành-chánh, hoạt-động bí-mật, dưới thời Đại-Tá Nguyễn Văn Y, là người kiêm-nhiệm cả hai chức-vụ đứng đầu Phủ ĐUTBTƯ và Tổng Nha CSCA. Đoàn gồm có nhiều Đội. Riêng Đội của tôi (tôi là Phụ-Tá Điều-Hành kiêm Phiên-Dịch-Viên) thì hoạt-động tại Cao-Nguyên Trung-Phần, có trụ-sở riêng, đóng tại Ban Mê Thuột, bên trong là “Đội Khảo-Cứu Địa-Lý”, bên ngoài là “Phòng Cảnh-Sát Tư-Pháp” (sở-dĩ dùng ngụy-danh này là vì trước đó tôi là Trưởng Phòng Cảnh-Sát Tư-Pháp tại Nha Cảnh-Sát Công-An Cao-Nguyên Trung-Phần ‒ hồi đó tuy mặc dân-phục nhưng đã đến tận phạm-trường chấp-lý các vụ phạm-pháp, nên đã có người biết mặt, biết tên).

Vì là “khảo-cứu địa-lý” nên tôi phải nắm vững tình-hình nông và sơn-thôn, trong đó có các Địa-Điểm Dinh Điền, các Khu Trù Mật, và nhất là các Ấp Chiến Lược vừa mới bắt đầu thành-hình trong năm 1962. Đồng-thời, vì là công-tác tình-báo, lần đầu tôi có cố-vấn CIA. Do đó, với óc tìm-tòi, tôi đã có dịp đọc được bản tài-liệu gốc tiếng Anh về “Ấp Chiến Lược”, đặc-biệt là nguồn gốc của nó, cùng với những kinh-nghiệm, ưu+khuyết-điểm của Ấp Chiến-Lược rút được từ thực-tế thi-hành trước đó tại các nước Mã Lai và Phi Luật Tân.

I

Tóm-tắt về Ấp Chiến-Lược

Người được công-nhận như một “Tổng Giám Đốc Điều Hành” của Chương-Trình Di-Dân Lập Ấp (nguyên-lai của Ấp Chiến-Lược) trên bình-diện quốc-tế là Sir Robert Thompson, một sĩ-quan không-quân và là một chuyên-gia chống-khuynh-đảo của nước Anh. Ông được cử làm Bộ-Trưởng Quốc-Phòng Thường-Trực cho nước Mã-Lai, thực-hiện hữu-hiệu sáng-kiến làng-xóm tái-định-cư (Village Resettlement) của Tướng Gerald Templer của Anh trong việc đánh dẹp Bộ-Đội Giải-Phóng Dân-Tộc Mã-Lai (MNLA= Malayan National Liberation Army) của đảng cộng-sản Mau Mau tại nước này, từ cuối thập-niên 1940 đến thập-niên 1950.

Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Robert_Grainger_Ker_Thompson và
http://en.wikipedia.org/wiki/Malayan_Emergency

Về Việt-Nam, có nhiều tài-liệu liên-quan, nhưng tôi tạm lấy một tài-liệu được xem là công-trình sưu-tập và biên-khảo đứng-đắn từ Văn-Khố Việt-Nam tại Viện Đại-Học Texas Tech (Vietnam Archive, Texas Tech University), để tóm-lược dưới đây.

Nguồn: http://www.vietnam.ttu.edu/events/2002_Symposium/2002Papers_files/peoples.htm

The Use of the British Village Resettlement Model in Malaya and Vietnam, 2002 (Việc sử-dụng kiểu-mẫu của Anh về Tái Định-Cư Xã Ấp tại nước Mã Lai và nước Việt Nam):

Tại Việt-Nam, từ 1952 đến 1954, tướng Pháp Francois Linares cho tái-định-cư khoảng 3 triệu người Việt ở Miền Bắc, đặc-biệt vùng đồng-bằng sông Hồng-Hà, vào các “làng được bảo-vệ” mà họ gọi là “nông-thị” (agroville) tức là thị-trấn ở nông-thôn, tức là “Khu Trù-Mật”. Đó là chính-sách “bình-định bằng sự phồn-thịnh”. Pháp cung-cấp dồi-dào các tiện-nghi xã-hội và kinh-tế, bảo-vệ và khuyến-khích lập các lực-lượng bán-quân-sự để tự-vệ, dựa vào nguồn tài-trợ sớm nhất của Hoa Kỳ cho Pháp sau khi xảy ra chiến-tranh Triều-Tiên. Phóng-viên chiến-tranh tên-tuổi Bernard Fall, sau khi đến thăm 2 khu kiểu-mẫu tại Khôi Lộc thuộc Tỉnh Quảng-Yên và Đông Quan tại Tỉnh Hà-Đông (Miền Bắc) đã tuyên-bố rằng “các Ấp Chiến-Lược của Pháp này rập đúng khuôn-mẫu của Anh bên Mã-Lai.”


II

Các chương-trình di-dân lập-nghiệp


Để cho dễ hiểu, tôi xin tóm-tắt về 3 chương-trình (đúng ra là 3 giai-đoạn, cấp-bậc cấu-trúc, danh-xưng) khác nhau, từ dưới lên trên (mà mục-đích chung là dựng hàng rào chiến-lược chận đường tiến chiếm của đối-phương):


1/ “Ấp Chiến-Lược” (giai-đoạn 1): gom dân tại chỗ, rào ấp tại chỗ.

Tại các vùng nông-thôn hay sơn-cước, dân-chúng cư-ngụ rải-rác và đi làm việc tùy-tiện, nên cộng-sản có thể liên-lạc, di-chuyển từ nhà này qua nhà khác, một cách dễ-dàng, để tuyên-truyền, dò-hỏi tin-tức, thu+mua vật-liệu, xây-dựng cơ-sở, lợi-dụng nhân-lực (ép-buộc đi phá cầu, phá đường, chôn mìn, kể cả tham-gia tấn-công đồn bót), rủ-rê hoặc bắt-cóc đi theo chúng (nếu chống-đối thì chúng giết chết...). Chương-trình “Ấp Chiến Lược” quy-tụ dân-chúng vào một khu nhà tập-thể, có rào và hào bao quanh, có cổng vào/ra chung, ở đó trai-tráng được cấp vũ-khí thay phiên canh gác, sáng mới mở cổng ra ngoài làm việc, chiều tối về nhà đóng chặt cổng lại. Cộng-sản không thể vào Ấp tiếp-xúc hay huy-động dân. Các Ấp như thế sẽ có tác-dụng như một dãy đồn tiền-phương cho các quận-lỵ xung quanh thị-xã. Nếu bị tấn-công thì dân trong Ấp tự mình chống-lại, báo-động cho Quận để lực-lượng Quận sẽ đến tiếp-cứu. Mục-đích là để giữ dân cũng như tài-nguyên khỏi lọt vào tay đối-phương, có tính chiến-thuật (về mặt quân-sự: cầm-cự tạm-thời để chờ viện-binh).

Vì “Ấp Chiến-Lược” có một diện-tích nhỏ hơn một ấp thông-thường, và phải được lập tại một vị-trí thuận-lợi về mặt giao-thông, nên tuy gom dân “tại chỗ” (tức là trong làng, trong quận sở-tại mà thôi) nhưng đa-số dân cũng phải rời bỏ nhà-cửa vườn-tược của mình.

2/ “Địa Điểm Dinh Điền” (giai-đoạn 2): di dân, khai hoang, lập ấp.

Tài-liệu chính-thức nói rõ là “điều-hòa dân-cư: di-chuyển (đến những tỉnh khác, miền khác) những nông-dân thiếu đất canh-tác ở miền Trung-Châu Trung-Phần, những công-nhân không chuyên-nghiệp khiếm-dụng ở các đô-thị, một số ít người di-cư tị-nạn vì lý do gì chưa được an cư lạc nghiệp như đại-đa-số người di-cư khác, cựu chánh-trị-phạm, cựu binh-sĩ đang cần trở lại đời sống bình thường nhưng không có phương tiện, đồng-bào vượt tuyến, Hoa-kiều tị-nạn và Việt-kiều hồi-hương chưa có cơ sở làm ăn, một số đồng-bào Thượng, để giúp cho họ sống đời định cư, định canh, hưởng những điều kiện cải tiến dân sinh.”

“Địa-Điểm Dinh Điền” cũng là một khu tập-trung, nhưng so với “Ấp Chiến-Lược “ thì “Địa-Điểm Dinh Điền” rộng lớn hơn, dân-số đông hơn, nhà cửa thoáng hơn, sinh-hoạt có tổ-chức hơn, vừa làm nghề cũ đã có từ quê-hương cũ, vừa học và làm nghề mới do chính-quyền huấn-luyện và trợ-cấp tại quê-hương mới. Nhân-lực nhiều hơn, phương-tiện dồi-dào và tân-tiến hơn (có cả nông-cơ), lực-lượng tự-vệ mạnh hơn, có thể cầm-cự với địch lâu hơn.

Nói chung là di-chuyển dân đi xa hơn, tái-định-cư, khai-phá đất mới, sản-xuất quy-mô hơn, có tính chiến-lược (tự-phòng), chú-trọng cả về kinh-tế, văn-hóa, xã-hội, tiến tới tự-túc để sẽ sáp-nhập vào nền hành-chánh địa-phương.

Người dân, thuộc nhiều gốc-gác khác nhau, bỏ hẳn nhà cửa, họ-hàng, mồ-mả tổ-tiên, đến lập một cuộc sống mới tại vùng đất mới khai-hoang.

3/ “Khu Trù Mật” (giai-đoạn 3): định-cư, lập-nghiệp (Dinh Điền lý-tưởng).

Khi nào có Địa-Điểm Dinh Điền nào “có những khu gia-cư khang-trang (nhà cửa có sân, vườn cây ăn trái, chuồng nuôi gia-súc), có khu công-sở (trụ-sở Hội-Đồng Quản-Trị, nhà hộ-sinh, nhà phát thuốc, giếng nước, trường học, phòng thông-tin, chùa, nhà thờ, chợ, bến xe đò, v.v...), có đường sá, cầu cống, kinh lạch để tiện việc giao-thông” tức là không những tự-túc mà còn tiến lên phồn-thịnh, thì sẽ được nâng lên cấp “Khu Trù Mật”.

Dân-cư tại “Khu Trù Mật” nổi bật là chung gốc-gác (địa-phương, chính-kiến, tín-ngưỡng).



III

Đệ-Nhất Cộng-Hòa Thực-Hiện Thế Nào


Trong những năm đầu của nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa, liền sau Hiệp-Định Geneva 1954, đa-số cán-bộ/bộ-đội cộng-sản từ Miền Nam phải tập-kết ra Miền Bắc, số ít cơ+cán CS gài lại thì phải nín thở đợi lệnh ‒ đồng-thời cộng-sản Miền Bắc từ rừng-núi về tiếp-thu thành-thị thì phải chăm lo tái-thiết, cải-tạo, ổn-định tình-hình sau cuộc chiến-tranh, rèn cán chỉnh quân, nên chưa đủ sức quấy rầy Miền Nam ‒ trong lúc đó thì dân Việt ghét Pháp và cũng không yêu Bảo Đại, chính-quyền của Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống Ngô Đình Diệm nhờ có Hoa Kỳ ép Pháp rút quân, và giúp dẹp yên các phe đối-lập, nhận được viện-trợ của Mỹ dồi-dào và có hoàn-cảnh ngưng bắn thuận-lợi nên đã tóm gọn được các phần-tử cộng-sản lộ-diện, củng-cố chế-độ và thực-hiện các chương-trình phục-vụ đồng-bào. Người dân Miền Nam nhờ đó đã hưởng được nhiều năm khá bình-yên, đầy hy-vọng vào tương-lai.

Đệ-Nhất Cộng-Hòa lợi-dụng thời-cơ, đốt giai-đoạn, xếp bỏ kế-hoạch “Ấp Chiến-Lược” (giai-đoạn 1), bỏ lơ các ấp nông-thôn & sơn-thôn, tiến lên xây-dựng các “ Địa-Điểm Dinh Điền” (giai-đoạn 2) kể từ năm 1957.

Mục-đích nêu ra (xem phần II đoạn 2 trên kia) thật là tốt-đẹp, chính-đáng, cụ-thể, cấp-thời.

*

Hồ-sơ tài-liệu tóm-tắt mà tương-đối đầy-đủ nhất về thành-tích hoạt-động của Đệ-Nhất Cộng-Hòa là cuốn “Thành-Tích SÁU NĂM HOẠT-ĐỘNG CỦA CHÁNH-PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA” Kỷ-Niệm Đệ-Lục Chu-Niên Chấp-Chánh của Tổng-Thống Ngô-đình-Diệm – Ngày Quốc-Khánh 26-10-1960 (cuốn này đã được Ông Hồ Đắc Huân, cựu SVSQ khóa 2 Hiện dịch Nha Trang, hiện ở Little Saigon, Hoa-Kỳ, in lại trong năm 2007).

Ngẫu-nhiên, năm 1960 cũng là năm “bản lề” giữa thời-kỳ “thành-công” 6 năm đầu và thời-kỳ “thất-bại” 3 năm sau của triều-đại Ngô-Đình, như tôi đã ghi trong bài “Năm 1960 đối với Đệ-Nhất Cộng-Hòa”.

*

Nói chung, từ 1954 đến 1960:

* Cấp 1 (“Ấp Chiến Lược”): Chưa thực-hiện (cho đến 1962);

* Cấp 2 (“Địa-Điểm Dinh Điền”): Đã thực-hiện từ 1957;

* Cấp 3 (“Khu Trù Mật”): Mới bắt đầu thực-hiện từ 1960.

*

Nói riêng về chương-trình “Dinh Điền”:

Một “Phủ Tổng-Ủy Dinh Điền” được thành-lập vào ngày 23-1-1957, được tổ-chức như một Bộ, nhưng lại được đặc-biệt đặt dưới quyền điều-khiển trực-tiếp của Tổng-Thống.

Nội-các của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm gồm có 14 Bộ, nhưng lại có đến 16 tổ-chức (Phủ Tổng-Ủy, Phủ Đặc-Ủy, Nha Tổng-Giám-Đốc, Phái-Đoàn, Cuộc, Học-Viện, Nha) trực-thuộc Tổng-Thống; trong số các cơ-sở trực-thuộc này thì “Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền” được xếp đứng đầu, tức là ưu-tiên trên hết mọi lãnh-vực hoạt-động khác của chính-quyền.

Tại Vùng liên-hệ (như Cao Nguyên Trung-Phần) có một Quản-Đốc Dinh-Điền kiểm-tra đôn-đốc việc thi-hành các chỉ-thị của Trung-Ương và đặc-biệt phụ-trách các vấn-đề an-ninh trong Vùng; tại Tỉnh có một Trưởng-Khu Dinh-Điền; và tại mỗi Địa-Điểm Dinh-Điền có một Địa-Điểm-Trưởng (dân-chúng gọi là “Ông Địa”). Về việc thi-hành ngân-sách do quỹ quốc-gia đài-thọ, các thủ-tục chi-tiêu và thanh-toán theo đúng nguyên-tắc của Ngân-Sách Quốc-Gia.

“Trong năm 1957-58 (năm đầu), phong-trào di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá và gần như không có chuẩn-bị đầy-đủ, kết-quả có bề rộng mà chưa có bề sâu, thì năm 1959-60 phải nói là công cuộc Dinh-Điền đã được thực-hiện theo một kế-hoạch đã được nghiên-cứu rất kỹ-càng. Những địa-điểm thành-lập trong các năm sau đều đã tiến-triển như mong muốn nhờ có thời-giờ chuẩn-bị, có hoàn-cảnh chọn-lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân và các cơ-cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có trớn lại thêm có kinh-nghiệm sống trong công-tác, đã hoạt-động một cách hữu-hiệu...” và “Đã đưa họ đến những vùng đồng ruộng bao-la không có người khai-thác hết ở miền Nam, và những vùng đất cao thuộc miền Đông Nam-Phần và Vùng Cao-Nguyên Trung-Phần đất rộng người thưa” và, ngoài việc canh-nông thông-thường và các nghề tiểu-công-nghiệp, còn “sản-xuất gai và ki-náp, phát-động phong-trào trồng cây cao-su, thí-nghiệm trồng nhiều cây kỹ-nghệ khác như bông vải, thuốc lá, ...”.

Tính đến ngày 26-10-1960, về số Địa-Điểm Dinh-Điền đã được thành-lập: năm 1957 là 16, năm 1958 là 32, năm 1959 là 36, năm 1960 là 42, tổng-cộng là 126 Địa-Điểm. Tại Cao-Nguyên Trung-Phần, nhiều nhất là ở Tỉnh Pleiku, rồi đến Tỉnh Darlac, xuống đến Tỉnh Quảng-Đức. Tại Đất Cao Miền Đông Nam-Phần và Nam Trung-Phần, nhiều nhất là ở Tỉnh Bình-Tuy, rồi đến Tỉnh Phước-Long, xuống đến các Tỉnh Bình-Long, Phước-Thành, Long-Khánh, Tây-Ninh, Ninh-Thuận, Bình-Dương, Phước-Tuy và Phú-Yên... .

Nói về số lượng Dinh Điền thì ở Tỉnh Pleiku là nhiều nhất, có đến 25 Địa-Điểm, kế đến là ở Tỉnh Darlac với 22 Địa-Điểm; riêng ở Tỉnh Quảng-Đức có 7 Địa-Điểm.




IV

Nguyên-Nhân Thất-Bại

Tôi bị chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa cất chức, quản-thúc, rồi đày đi khỏi Huế lên Cao-Nguyên Trung-Phần (vùng “nước độc và nguy-hiểm”), đến Ban Mê Thuột vào tháng 8 năm 1960. Hồi đó các Nha cấp Phần có quyền “tự-trị” địa-phương (chưa bị khép vào khuôn-khổ như khi hợp-nhất Cảnh-Sát với Công-An thành Cảnh-Sát Quốc-Gia theo Sắc Lệnh số 146/NV ngày 27-6-1962, hai năm về sau). Giám-Đốc Nha Công-An & Cảnh-Sát Phần này là Thiếu-Tá Nguyễn Văn Luận (về sau thăng cấp đại-tá, làm Tiểu-Khu-Trưởng kiêm Tỉnh-Trưởng Tỉnh Bình-Định), có thành-lập một bộ-phận đặc-biệt (hoạt-động bên ngoài) riêng của Nha này, do Ông Nguyễn Hữu Liêm (về sau là Trưởng-Ty CSQG Tỉnh Darlac) chỉ-huy, gồm có Phòng An-Ninh Chính-Trị, Phòng Cảnh-Sát Tư-Pháp, và Đội Biệt-Kích. Biệt-Kích thì đi lùng diệt cộng-sản khắp cao-nguyên. An-Ninh Chính-Trị do Ông Nguyễn Giang phụ-trách, Cảnh-Sát Tư-Pháp do tôi, Lê Xuân Nhuận đảm-đương (nhưng hai chúng tôi làm việc chung với nhau, cả chính-sự lẫn hình-sự).

Thoạt tiên, tôi được phái về điều-tra các vụ bê-bối tại Địa-Điểm Dinh-Điền Kiến-Phúc (?) phía nam quận-lỵ Kiến-Đức của Tỉnh Quảng-Đức (hồi đó Quận-Trưởng là Đại-Úy Nguyễn Văn Thanh).

Từ một vụ nhỏ là dân-chúng bị buộc phải nạp phí-tổn chụp hình, mặc dù việc thầu nhiếp-ảnh (cũng như mọi khoản chi-tiêu khác của Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền) đã được Hoa-Kỳ đài-thọ cho “Ngân-Sách Quốc-Gia”. Rồi nhân dịp có “cấp cao” (từ Phần xuống thấu Tỉnh, Quận) đến làm sáng-tỏ nỗi oan của người dân nghèo, nhiều đơn khiếu-nại về những vụ khác, lớn hơn, đã được đồng-bào nạp thêm... .

Cho đến một hôm tôi đi từ Ban Mê Thuột vào Dinh-Điền ấy thì bị Việt-Cộng phục-kích (tôi bị lật xe, gãy một xương vai và hai xương sườn), các vụ tiếp theo được giao cho các bạn khác điều-tra... .

*

Nói chung là Đệ-Nhất Cộng-Hòa (thật ra là chính Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu) tại Miền Nam đã thực-thi Chương-Trình Di-Dân Lập-Ấp này theo cách mà các nhân-vật tên-tuổi một thời đã ghi như sau (xem Tham-Chiếu 4)

Họ Ngô quan-niệm người dân chỉ đóng một ít tiền thuế mà được thụ-hưởng biết bao lợi-ích, nên khi cần dựng các khu tập-trung, Địa-Điểm Dinh Điền, thì phải góp phần cùng với chính-quyền, phải dùng công-sức của mình mà tham-gia phát-triển cộng-đồng. Người dân thì bị lao-động không lương theo lối dân-công, phải cung-ứng thêm vật-liệu, phải đóng góp tiền, và chịu đựng các tệ-nạn; đi ra làm việc trễ hơn và phải trở về sớm hơn, cộng với đường đi xa hơn, nên việc sản-xuất cũng như tinh-thần giảm-sút rõ-ràng.

*

Sau ngày Cách-Mạng 1-11-1963, tôi làm Trưởng-Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Quảng-Đức.

Vì Hội-Đồng Quân-Nhân Cách-Mạng, do Trung-Tướng Dương Văn Minh cầm đầu, chưa ổn-định xong tình-hình nội-bộ các tướng và nội-các mới, đâu thể nghĩ gì đến các... Địa-Điểm Dinh-Điền xa-xôi, nên đa-số dân tại nhiều Dinh-Điền tự-động kéo nhau bỏ về quê xưa.

Chính tôi đích-thân đứng ra tại các ngã ba, nhất là Daksong ở Quận Đức-Lập (nơi từ các hướng Kiến-Đức trên Quốc-Lộ 14 và Khiêm-Đức trên Liên-Tỉnh-Lộ 9 thuộc Tỉnh Quảng-Đức nhập vào để lên Ban Mê Thuột, hầu dùng Quốc-Lộ 21 mà về Quốc-Lộ 1 ở Nha-Trang hòng ra Miền Trung) để chận họ lại. Về phương-diện Cảnh-Sát Hành-Chánh, di-chuyển đi xa mà không xin phép, tức là phạm tội gì đó nên phải trốn-tránh sau khi có biến-cố lớn xảy ra, nên tôi cho bắt một số cầm đầu để hỏi lý-do.

Qua cuộc điều-tra & phối-kiểm, tôi biết đại-khái như sau:

Họ là dân gốc các Tỉnh Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Quảng-Ngãi, Bình-Định (phía Bắc Trung-Phần). Trong công-cuộc phát-triển cộng-đồng, cải-tiến dân-sinh, (mục-đích tốt-đẹp) chính-quyền Ngô Đình Diệm đã thực-hiện nhiều chương-trình không phải song-song với nhau mà lại chòng-chéo lên nhau. Thí-dụ:

Phủ Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ coi về Phát-Triển Cộng-Đồng, Tổ-Chức Làng Mạc, bằng cách tổ-chức Hội-Đồng Xã, các đoàn-thể nhân-dân (các Hội; các Ban; các Câu-Lạc-Bộ; các Nghiệp-Đoàn, các Hợp-Tác-Xã, các Hiệp-Hội Nông-Dân; các Đoàn Nông-Dân Cách-Mạng Quốc-Gia, Đoàn Thanh-Niên CMQG, Đoàn Phụ-Nữ CMQG, Đoàn Thiếu-Nhi CMQG, Thanh-Niên Cộng-Hòa, Thanh-Nữ Cộng-Hòa, v.v...), huấn-chính (huấn-luyện chính-trị) nhân-dân, phối-hợp với các lực-lượng quân-sự và an-ninh để trấn-an nhân-tâm (riêng tại các tỉnh Miền Trung và Cao-Nguyên thì tham-gia hành-quân tuần-sát, chiến-dịch “Tố Cộng”, Dân-vận, Thượng-vận, v.v...), vận-động nhân-dân đóng-góp, tính đến 1960, là 23,840,320 nhân-công và 144,210,686.00 tiền mặt; huấn-luyện Trưởng Ấp, Liên-Gia-Trưởng, công-dân giáo-dục, chủ-nghĩa Nhân-Vị; tổ-chức meeting, biểu-tình, liên-hoan văn-nghệ; bắn chết, bắt sống, và vận-động cán-bộ VC về đầu-thú; kêu gọi thanh-niên trốn quân-dịch theo VC quay trở về; phát-giác VC nằm vùng và các phần-tử tiếp tay; vận-động nhân-dân khám-phá cơ-sở kinh-tài, tịch-thu vũ-khí của VC; hướng-dẫn nhân-dân lập khu trù-mật, làng kiểu-mẫu; tham-gia quy thôn, quy ấp; sửa chữa nhà cửa, sửa đập, đắp đê, đào mương, làm vườn ương cây, phát thuốc, sửa phòng đọc sách, dựng chòi phát-thanh, kiểm-tra dân-số, tổ-chức Liên-Gia Tương-Trợ; hướng-dẫn nhân-dân trồng-tỉa, chăn-nuôi, làm tiểu-công-nghệ; huấn-luyện cán-bộ Thú-Y, làm chuồng và hướng-dẫn chăn nuôi; tổ-chức các lớp văn-hóa bổ-túc; v.v... nghĩa là dẫm đạp lên các Bộ Nội-Vụ, Quốc-Phòng, Thông-Tin, Quốc-Gia Giáo-Dục, Y-Tế, Lao-Động, Canh-Nông, Công-Chánh và Giao-Thông, Điền-Thổ và Cải-Cách Điền-Địa, v.v... .

Phủ Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ cũng dẫm đạp lên cả Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền, Phủ Tổng-Ủy Hợp-Tác-Xã và Nông-Tín, Nha Tổng-Giám-Đốc Xã-Hội, Nha Tổng-Giám-Đốc Thanh-Niên, v.v... là những cơ-quan cũng cùng trực-thuộc Tổng-Thống... .

Đó hẳn là một trong các lý-do chính-yếu tại sao cả loạt Tổng-Trưởng & Bộ-Trưởng do chính Tổng-Thống Ngô Đình Diệm bổ-nhiệm đã xin từ-chức.

Cũng cần ghi thêm là chính Tổng-Thống Ngô Đình Diệm đã đích-thân ngồi trên phi-cơ trực-thăng đi quan-sát địa-thế và dùng ba-tông chỉ vào các nơi mà ông muốn thành-lập Dinh-Điền tức Khu Trù-Mật về sau. Nhưng người thi-hành, thay vì làm dấu tọa-độ chính-xác trên các bản đồ, đã chấm một số khu rừng có nhiều gỗ quý (cẩm-lai, trắc, gụ, v.v...) để cho nhà thầu khai-thác lấy tiền bỏ vào túi riêng.

Tổng-Giám-Mục Ngô Đình Thục cũng khai-thác rừng theo kiểu đó. Trong bài “Chín Năm Bên Cạnh Tổng-Thống Ngô Đình Diệm - Mạn đàm với cựu Đổng Lý Quách Tòng Đức”, Ông Lâm Lễ Trinh đã viết: “Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail, v.v...), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều gì sai quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập.”

*

Trở lại với vụ đồng-bào Dinh-Điền bỏ về làng cũ sau ngày Cách-Mạng 1-11-1963:

Chính-quyền Đệ-Nhất Cộng-Hòa nói chung đã dùng chiêu-bài “Đả-Thực, Bài-Phong, Diệt-Cộng” để đẩy đa-số dân quê vào bước đường cùng: các chức-sắc làng thì là tàn-tích Bảo Đại phong-kiến, mấy cậu học-sinh có bằng “xép-xi, đép-xi” thì là tay-chân của Pháp thực-dân, bà-con họ-hàng gần/xa của các cán-binh Việt-Minh thì là cơ-sở cộng-sản nằm vùng; những kẻ lừng-khừng không chịu sốt-sắng tham-gia “Phong-Trào Cách-Mạng Quốc-Gia” thì là phản-động; và cả thành-phần lè-phè thì bị liệt vào bốn giới “tứ đổ tường” (cờ-bạc, rượu-chè, hút-xách, dâm-ô); đều bị “đấu-tố” liên-miên, qua các buổi meeting, các cuộc biểu-tình, các lớp “học-tập chủ-nghĩa Nhân-Vị, đạo-đức cách-mạng của Ngô Tổng-Thống”, các đợt “Tố Cộng”; để rồi cuối-cùng, nếu không bị giết, thì “được” đưa đi Dinh-Điền (tức là trục-xuất ra khỏi địa-phương, một cách lưu-đày).

Ngẫu-nhiên hầu hết họ là tín-đồ Phật-Giáo. Và nhân cơ-hội gọi là “Phật-Giáo lật đổ Nhà Ngô”, dân các Dinh-Điền Darlac đã ùa theo nhau trở về quê cũ, nên các đương-nhân từ các Địa-Điểm ở Quảng-Đức này cũng kéo nhau đi.

Tôi có báo-cáo lên trên; nhưng Nha CSQG Cao-Nguyên Trung-Phần, nhất là Tổng-Nha CSQG, chắc không nhận được lệnh gì rõ-ràng trong lúc tình-hình toàn-quốc, đặc-biệt Thủ-Đô Sài-Gòn, còn đang căng-thẳng sau cuộc chính-biến, nên không trả lời. Cấp trên của tôi tại chỗ là tỉnh-trưởng thì cũng chẳng thể làm gỉ khác hơn.

Thế là Chương-Trình Dinh-Điền tự-động kết-thúc, không cần lệnh-lạc của ai.


V

Các “Khu Trù-Mật”


Có một số người lẫn-lộn thứ-tự ra đời giữa “Dinh Điền” và “Khu Trù-Mật”. Tôi viết rằng “Khu Trù Mật” có sau “Dinh Điền” vì các lý-do sau đây: Trong cuốn Thành-Tích Sáu Năm (1954-1960) là tài-liệu chính-thức của Đệ-Nhất Cộng-Hòa, nghĩa là tính đến ngày 7-7-1960, không có báo-cáo là đã thành-lập một “Khu Trù Mật” nào cả, mà chỉ nói là đang “tổ-chức các địa-điểm (Dinh-Điền thành-lập từ năm 1957) thành một đơn-vị có thể trở nên về sau một “Khu Trù-Mật” có những khu gia-cư khang trang...” và mãi đến 3 tháng sau, vào ngày 3-10-1960 thì Tổng-Thống Ngô Đình Diệm mới đọc thông-điệp tại Quốc-Hội rằng “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960, 17 khu đã khánh-thành...”

Như trong báo-cáo của Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền đã có nói rõ (trong cuốn “Thành-Tích Sáu Năm Hoạt-Động của Chánh-Phủ Việt Nam Cộng Hòa”, 1960): “Có thể nói trong năm 1957-58, phong-trào di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá và gần như không có chuẩn-bị đầy đủ, kết quả có bề rộng mà chưa có bề sâu, thì năm 1959-60 phải nói là công cuộc Dinh-điền đã được thực hiện theo một kế hoạch đã được nghiên cứu rất kỹ càng. Những địa-điểm thành lập hơi vội vàng trong năm đầu đã được lần lần củng cố và cải tiến. Những địa-điểm thành lập trong các năm sau đều đã tiến triển như mong muốn nhờ có thời giờ chuẩn bị, có hoàn cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có trớn lại có thêm kinh nghiệm sống trong công-tác, đã hoạt động một cách hữu hiệu.” (trang 22)

Đó là nói về Dinh-Điền, nhưng theo những gì tôi đã tìm hiểu tại chỗ thì đoạn báo-cáo trích trên có thể được “hiểu” và “viết” như sau:

“Trong năm 1957-58, phong-trào di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá và gần như không có chuẩn-bị đầy đủ, vì: về địa-điểm thì Trung-Ương chưa chọn đủ nhiều; về quê-quán thì lẫn-lộn cả dân Miền Nam lẫn dân Miền Bắc di-cư; về nghề-nghiệp thì lẫn-lộn nhiều ngành khác nhau; về chính-trị thì lẫn-lộn giới được chính-quyền khen với giới bị chính-quyền chê; về văn-hóa thì lẫn-lộn các tín-ngưỡng khác nhau; v.v... Sau đó, đã được lần lần củng cố và cải tiến: đồng-bào tín-đồ Ky-Tô-Giáo được các linh-mục hướng-dẫn tách riêng; những ai được chính-quyền xem là đã “tốt” rồi cũng được chiếu-cố nhiều hơn; và các tay nghề ngành nào thì được đưa vào cảnh-trí thích-hợp với ngành ấy hơn... nhờ có thời giờ chuẩn bị, có hoàn cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có trớn lại có thêm kinh nghiệm sống trong công-tác, đã hoạt động một cách hữu hiệu.”

Cho nên chính-quyền “tổ-chức các địa-điểm (Dinh-Điền) thành một đơn-vị có thể trở nên về sau một Khu Trù-Mật có những khu gia-cư khang trang...” (trang 15).

Như thế chứng-tỏ là “Khu Trù-Mật” “cao cấp” hơn “Địa-Điểm Dinh-Điền” nhờ được chọn lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân. “Khu Trù-Mật” là “Dinh-Điền lý-tưởng” vậy.

Ngay việc đặt tên cũng đã nói lên điều đó: toàn Tỉnh chỉ có một Khu Dinh-Điền bao gồm nhiều Địa-Điểm Dinh-Điền, trong lúc mỗi một địa-điểm như thế trong Tỉnh mà được nâng lên loại-hạng trù-mật thì được gọi là Khu Trù-Mật (mỗi Tỉnh có nhiều Khu Trù Mật).

Kết-quả: kể từ 1960, Chương-Trình “Khu Trù-Mật” ra đời. Theo Thông-Điệp của Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hòa Ngô Đình Diệm đọc tại Quốc-Hội ngày 3 tháng 10 năm 1960 thì “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960, 17 khu đã khánh-thành...”

Riêng các “Khu Trù-Mật” của đồng-bào Ky-Tô-Giáo La-Mã, do các linh-mục cai-quản thì tiến-triển nhanh và phát-đạt nhất, và còn tồn-tại lâu dài... .



VI

Ấp Chiến-Lược


Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền đã được thành-lập từ ngày 23-1-1957, trong lúc “Ấp Chiến-Lược” thì phải đợi đến năm 1962 (8 năm sau ngày TT Ngô Đình Diệm chấp-chánh) mới được chính-thức ra đời (như đã nêu trên).

Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền thì trực-thuộc Tổng-Thống, mà lại được nêu trước tiên, trên mọi cơ-quan chính-quyền (và các Khu Dinh Điền ở Tỉnh thì được tự-trị). Còn “Ấp Chiến-Lược” thì chỉ là một bộ-phận phụ-thuộc của Bộ Nội-Vụ (và chỉ có một Phòng tại Tòa Hành-Chánh Tỉnh) mà thôi.

Cho nên “Ấp Chiến-Lược” không có mặt, nên không đóng góp một chút “công-trạng” gì vào các thành-tựu được kể, và chỉ có, vào những năm đầu (1954-1960) của nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa.

*

Vì cả 3 chương-trình đều có di-dân, và mỗi “Ấp (Chiến-Lược)” hay “Địa-Điểm (Dinh-Điền)” hay “Khu (Trù-Mật)” đều có hàng rào kẽm gai và hào hố bao quanh (mặc dù mức-độ, tầm-vóc, và chủ-đích khác nhau), cho nên từ năm 1962 trở đi dân-chúng gọi chung là “Ấp Chiến-Lược”.

Và sau 1975 thì “Ấp Chiến-Lược” được một số người kể công (ma) trong việc “ngăn-chận cộng-sản xâm-lăng”.

*

Thật ra, Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nhất là Cố-Vấn Ngô Đình Nhu dù là chính-thức công-bố vào năm 1962 nhưng đã âm-thầm bắt đầu khởi-công “Ấp Chiến-Lược” từ cuối năm 1961, và xem nó là “quốc-sách” ‒ công-cụ (biểu-tượng) chủ-chốt của ý-thức-hệ (chủ-nghĩa Nhân Vị) và uy-tín của chế-độ Nhà Ngô, mũi nhọn tác-động cách-mạng chính-trị và văn-hóa, mang lại một sự thay đổi chính-yếu cho bản-chất xã-hội Miền Nam Việt-Nam. Cố-Vấn Ngô Đình Nhu tuyên-bố từ nay chỉ chuyên đích-thân và trực-tiếp lo cho “Ấp Chiến-Lược” mà thôi, đặt hết sự-nghiệp chính-trị vào chương-trình này.

Và khi trả lời Phóng Viên Báo Toronto Globe and Mail, hồi đầu năm 1963 và được in lại trong Nguyệt San Gió Nam, Ông Nhu đã xác định rõ ràng: “Tôi phải nói ngay rằng Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi... . Hiện nay cái học thuyết Nhân Vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là món quà của Ông Già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sángsuốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẵn. Chính cái quan niệm về tự do nầy đã khai mào cho toàn bộ chương trình ACL. Hệ thống Ấp Chiến Lược nầy sẽ làm thay đổi cơ cấu chính trị thượng tầng của chính phủ hiện tại... .” (5-5-1963, tr.68)

Trong bức điện-văn gửi Bộ Ngoại-Giao Hoa-Kỳ vào ngày 19-9-1963, Đại-Sứ Mỹ Cabot Lodge đã kể: “Nhu nói thật nhiều, lập đi lập lại rằng ông ta đã sáng tạo ra các ấp chiến lược, rằng ai cũng bảo, kể cả người Mỹ, rằng ông ta sẽ không làm nổi được đâu, song ông ta vẫn đã làm được” (Nguồn: FRUS, vol. IV, 129).

Mặc dù các tài-liệu của Phương Tây cho thấy là "Ấp Chiến Lược" bắt nguồn từ Anh ở Mã Lai và Mỹ ở Phi Luật Tân, và cả Pháp ở Miền Bắc Việt-Nam, đồng-thời tài-liệu của Phương Đông cũng cho thấy là từ Triều Nguyễn của chính Việt-Nam (Đại Nam Thực Lục đã ghi: Tiểu Phủ Sứ Nguyễn Tấn [1820-1871] đã áp-dụng kế-sách gom dân lập ấp phòng-thủ như thế từ năm 1863 trong việc đánh dẹp thành-công người Mọi Đá Vách ở Tỉnh Quảng-Ngãi), nhưng Ông Ngô Đình Nhu vẫn tự cho là, và tự-hào rằng mình đã sáng tạo ra nó.

Tuy nhiên, nỗ-lực một cách tuyệt-vọng của họ Ngô đã diễn ra trong một hoàn-cảnh ngày càng bất-lợi kể từ sau năm 1960. Trước hết, Đại-Tá (nay là Thiếu-Tướng) Edward G. Lansdale, người khách-tại-gia mà là bảo-trợ-viên vừa là tri-kỷ vừa là ân-nhân của TT Ngô Đình Diệm đã rời khỏi ông từ cuối năm 1956 rồi. Trước đó, phía Mỹ có 2 khuynh-hướng: bình-định bằng sức mạnh Quân-Sự, và bình-định bằng thế mạnh Kinh-Tế. Nhưng cả hai đều liên-quan đến An-Ninh: Quân-Sự để tái-lập An-Ninh, và An-Ninh để phát-triển Kinh-Tế. Lansdale thiên về kinh-tế (bảo-vệ cho dân an-cư lạc-nghiệp thì được lòng dân); Diệm cũng nhắm vào kinh-tế (kiểm-soát để dân không theo Cộng-Sản thì dân trung-thành với mình ‒ cho nên từ năm 1957 đã đốt giai-đoạn, thực-thi chương-trình “Dinh-Điền”). Nhưng giữa Lansdale và Diệm vẫn có một chút bất-đồng (ngoài cái tỷ-lệ phiếu bầu cho Diệm trong cuộc “Trưng Cầu Dân Ý” mà Lansdale gợi ý là nên thấp hơn cho khả-tín hơn, nhưng Diệm không nghe), một chút mà là một trời một vực: cũng cùng một việc cải-tiến dân-sinh mà theo Lansdale thì việc đó làm cho dân quê thấy rằng Diệm yêu-quý dân quê, mà theo Diệm thì việc đó làm cho mọi người thấy rằng dân quê mang ơn Diệm nên tuân-phục Diệm. Lúc đó Mỹ cũng đã có hướng về phản-du-kích-chiến, bình-định nông-thôn, song le viện-trợ Hoa-Kỳ thì vẫn kèm theo đòi-hỏi chính-quyền Đệ-Nhất Cộng-Hòa thực-thi dân-chủ, điều mà Diệm & Nhu vẫn mãi chối-từ. Sau cùng, Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu quay qua nhờ sự cố-vấn của Sir Robert Thompson, Trưởng Phái-Bộ Anh BRIAM (British Advisory Mission) là nguời chủ-trương sử-dụng tim-óc thay cho bom-đạn, thế nhưng quan-niệm về tim+óc thì vẫn bất-đồng giữa hai bên. Ngoài ra, một mặt thì cộng-sản đã mạnh hơn, một mặt thì đồng-bào đã bất-mãn hơn, trong khi Đồng-Minh Hoa-Kỳ thì lạnh nhạt với Nhà Ngô hơn.

Tôi đã đến thăm ban ngày, cũng như ngang qua ban đêm, một số “Ấp Chiến-Lược”, dọc theo quốc-lộ 14 tại Cao-Nguyên Trung-Phần, từ Tỉnh Darlac xuống Tỉnh Quảng-Đức.

Lý-thuyết, và cả nhìn thấy, thì thật khả-quan. Nhưng Dân Vệ Ấp chận xe xét người qua lại trước đường hơn là đề-phòng du-kích lén lút sau rào; và khi lúa chín, đáng lẽ sáng mai thì dân ra gặt, đêm nay dân phải ở lại trong Ấp, cộng-sản ở ngoài tự-do gặt hớt tay trên. Lính Quận chỉ có một đường đến Ấp; cộng-sản đánh Ấp thì hẳn gài mìn, đào hố, đắp mô, tạo chướng-ngại-vật; lính sợ phục-kích nên không hoặc chậm đến nơi; đến nơi thì sự đã rồi.

Cộng-sản quả thật có bị thiệt-hại, nhưng do các hoạt-động khác, nhất là chiến-dịch “Tố Cộng”, chứ không phải do “Quốc-Sách Ấp Chiến-Lược”, bởi lẽ giản-dị là rừng núi bao-la, ruộng rẫy mênh-mông, cộng-sản lội suối băng đồng, chứ đâu chỉ có đi trên các đường dẫn đến Ấp hay Địa-Điểm hay Khu nào đâu mà bảo là “quốc sách” (chiến-lược) ấy đã chận đường tiến quân của họ từ bưng vào thành, từ Bắc vào Nam. Hơn nữa, người dân vẫn phải ra ngoài (ruộng-đồng, rẫy-rừng) làm việc, dù là ban ngày, thì cũng vẫn bị cộng-sản tiếp-xúc, dò tin, móc nối, thu mua. Một khi cộng-sản đã quyết “nhổ” một “chốt” nào thì họ lập hẳn sa-bàn, tập-dượt kỹ-lưỡng, rồi dùng lực-lượng áp-đảo (người và vũ-khí), hễ đánh là thắng chớp-nhoáng, lính Quận không tiếp-ứng kịp, lương-thực vẫn bị cướp đi, súng-ống lấy được của ta ngày càng làm giàu cho kho vũ-khí của đối-phương.

Tóm lại, “Ấp Chiến-Lược”, dù cho số lượng ít hơn Ấp thật ngoài đời (hằng vạn), nhưng nếu thành-hình sớm hơn thì chúng cũng vẫn sẽ là một dãy tiền-trạm, nếu không tự-vệ thì cũng là một vành đai báo-động, bao quanh các Quận, góp phần không ít cho việc quốc-phòng. Còn “Địa-Điểm Dinh Điền” hay “Khu Trù-Mật” thì lại quá ít (chỉ hơn một trăm), mỗi một đơn-vị đứng riêng một góc, như một ốc-đảo, không đáp-ứng được nhu-cầu đề ra. Trong lúc đó, các Ấp còn lại ngoài đời (hằng vạn) suốt 8 năm qua vẫn là hành-lang giao-liên, thông-tin, tiếp-tế, tuyển-mộ, ẩn-náu, xuất-quân, để địch ngày càng mạnh hơn (họ đã có thể công-khai ra mắt Mặt Trận Giải Phóng từ năm 1960).

Đến khi Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nhất là Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, từ giai-đoạn 2 và giai-đoạn 3 vào năm 1962 (chỉ hơn một trăm Dinh-Điền và Khu Trù-Mật) sực tỉnh mà quay trở xuống lại giai-đoạn 1, muốn dựng cấp-tốc một loạt 8,000 “Ấp Chiến-Lược” cho năm 1962 và 12,000 Ấp cho năm 1963, tổng-cộng 20,000 Ấp (đáng lẽ có thể đã thực-hiện xong, nếu chịu thi-hành giai-đoạn 1 chậm nhất là từ năm 1957). Nhưng dù chỉ cốt có lượng hơn là có phẩm, mãi đến năm sau, cuối năm 1963 mà chỉ mới có hơn 7,000 Ấp (hiện-diện ở trên hình-thức, trong đó chỉ có khoảng 1,500 Ấp là đáng kể thôi), lúc đó thì đã muộn rồi, đã quá muộn rồi.

Trong cuộc họp của Ủy Ban Liên Bộ Đặc-Trách Ấp Chiến-Lược vào ngày 12-4-1963, Cố-Vấn Ngô Đình Nhu đã nhận xét: “Tôi nhận thấy việc tiếp viện cho các ACL bị VC tấn công không được thực hiện đúng mức và kịp thời. Các tỉnh phải liên lạc thường xuyên bằng vô tuyến với các quận để thông báo tin tức cho nhau đề cao cảnh giác, đồng thời cấp quận cũng phải liên lạc luôn luôn với các ACL để hỏi biết tình hình, tin tức, và đốc xuất họ đề cao cảnh giác, nhất là về ban đêm và các ngày nghỉ lễ, chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Thường, tôi thấy các địa phương còn thiếu ý thức cảnh giác, nhất là trong những ngày nghỉ, vì vậy tôi yêu cầu các ông tỉnh trưởng, quận trưởng phải cố gắng làm việc nhiều hơn trong những ngày đó. Nếu cần nghỉ, thì nghỉ vào những ngày khác trong tuần, để tránh qui luật cố định mà địch có thể lợi dụng”.

Năm tháng trôi qua, vào ngày 6-9-1963 Cố-Vấn Ngô Đình Nhu lại triệu tập một cuộc họp của Ủy ban liên bộ đặc trách ấp chiến lược, với nhiều bộ trưởng, tướng lĩnh, do Nhu chủ tọa. Trong cuộc họp này, Nhu đã phiền-trách các tướng tá: “Sau mỗi lần VC tấn công một ấp chiến lược (ACL), tôi yêu cầu các Khu chiến thuật và cấp tỉnh, quận tổ chức hành quân trả đũa tức thời. Vấn đề này tôi đã đề cập nhiều lần nhưng chưa thấy các nơi tích cực thi hành. Nếu ta không hành quân trả đũa, thì đương nhiên ta khuyến khích địch tấn công mạnh các ACL. Tôi cũng nhận thấy bên quân đội không chú trọng nhiều tới việc yểm trợ công tác xây dựng ACL”.

Nguồn: “Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets”, Douglas Pike Collection: Other Manuscripts, Texas Tech University.

http://vietbao.vn/Phong-su/My-va-cuoc-dao-chinh-Diem-Nhu-Nhu-va-ap-chien-luoc/40003654/262/

Quân-Đội mà không chú-trọng nhiều đến “Ấp Chiến Lược” thì “quốc sách” ấy hẳn đi về đâu?

(xem Tham-Chiếu 5)



LÊ XUÂN NHUẬN




► ● ◄

► Tham-Chiếu 1:

“... Chương Trình Ấp Chiến Lược bị gián đoạn và sau đó bị hủy bỏ qua sắc luật SL.103/SL/CT, giải tán ủy ban đặc trách Ấp Chiến Lược ở trung ương và vùng, do thủ tướng Nguyễn Khánh ký ngày 9 tháng 3-1964. ...”

Nguồn: Từ Điển Chiến Tranh Việt Nam. Nguyễn Kỳ Phong. Garden Grove, CA: Nhà Sách Tự Lực, 2009 (trang 16).

“... 9.3.1964 - Giải tán Ủy-Ban đặc-trách Ấp Chiến Lược, ở Trung-ương và Khu (SL.103/SL/CT) ”

Nguồn: Hai Mươi Năm Qua. Đoàn Thêm. Los Alamitos, CA: Xuân Thu (trang 383)

Trở lên ▲


► Tham-Chiếu 2:

Lansdale, Edward

“Chuyên viên chống nội-loạn và du-kích-chiến. Giúp Philippines đánh tan quân cộng-sản Huk, dựng ghế nguyên-thủ cho Tổng-Thống Magsaysay, và từ năm 1954 qua giúp Ngô Đình Diệm. ...”

Nguồn: Việt Nam Niên Biểu, Nhân Vật Chí. Chính Đạo. Houston, Texas: Văn Hóa, 1997 (trang 195)

Lansdale, Edward Geary:

Được Tổng-Thống Elpidio Quirino của Phi-Luật-Tân đích-thân yêu-cầu sung vào Phái-Bộ Quân-Trợ Hoa-Kỳ tại Phi-Luật-Tân để giúp cơ-quan quân-báo của nước này đánh dẹp cộng-sản Hukbalahap (Huks), vào lúc Ramon Magsaysay vừa được cử làm Bộ-Trưởng Quốc-Phòng, và Lansdale được chọn làm sĩ-quan liên-lạc với ông ta. Hai người trở thành bạn thân, cùng đi quan-sát chiến-trường. Lansdale giúp quân-lực Phi triển-khai hoạt-động tâm-lý-chiến, dân-vận, và phục-hoạt tù-binh Huks. Ông đã tạo-dựng cho Magsaysay sau đó trở thành “vị tổng-thống tài-ba nhất” của Phi. Vào năm 1953, Lansdale được chọn là một trong các tay tình-báo giỏi nhất của Hoa-Kỳ để sung vào Phái-Bộ của thiết-tướng (gan lì như sắt thép) Mỹ John W. O'Daniel tại Đông-Dương, (trung-tướng mà tự xuống lon thiếu-tướng cho đúng thủ-tục ngoại-giao để làm) cố-vấn phản-du-kích-chiến cho binh-lực Pháp chống Việt-Minh. Năm 1954, Lansdale được Tổng-Thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đặc-phái trợ-giúp riêng cho Ông Ngô Đình Diệm, với tư-cách Chỉ-Huy-Trưởng “Phái-Bộ Quân-Sự Sài-Gòn” (SMM= Saigon Military Mission), mang danh quân-sự mà nằm ngoài Phái-Bộ Cố-Vấn Viện-Trợ Quân-Sự Mỹ (MAAG) tại Việt-Nam, hoạt-động tình-báo mà nằm ngoài cơ-cấu Tình-Báo CIA tại Việt-Nam, nhận lệnh và báo-cáo trực-tiếp lên Giám-Đốc Tình-Báo Trung-Ương (CIA) Allen Dulles tại Hoa-Kỳ, cấp-tốc đáp nhờ chuyến thủy-phi-cơ đầu tiên nhân bay tuần-thám trên Biển Nam-Hải từ căn-cứ Không-Quân Clark, đến sẵn Sài-Gòn từ cuối tháng 5, trước khi Ông Ngô Đình Diệm từ Pháp về nước (vào ngày 25 tháng 6), bắt tay vào việc bằng cách cuốc bộ hoặc đi xích-lô (trong lúc lính quèn của Pháp thì dùng xe Jeep do Mỹ viện-trợ). Tại Miền Bắc Lansdale áp-dụng chiến-thuật tuyên-truyền đen; ngụy-tạo tài-liệu về tội ác của Việt-Cộng và Hoa-Cộng; phao tin có mấy sư-đoàn lính Tàu đã vượt biên-giới qua cướp-bóc và hiếp-dâm dân ta; in các sách bói đứng tên các nhà chiêm-tinh và lý-số nổi tiếng ở Hà-thành tiên-đoán cộng-sản sẽ thảm-sát lương-dân và Miền Nam sẽ sớm phồn-vinh; đồn miệng là Việt-Minh sắp-sửa đổi tiền khiến đồng bạc “cụ Hồ” mất giá 50%; rỉ tai rằng “Đức Mẹ” đã đi vào Nam khiến số tín-đồ Ky-Tô-Giáo di-cư tăng 300%; dùng chí-nguyện-quân Phi phá-hoại máy-móc và hệ-thống giao-thông trước khi rút lui; tổ-chức các lực-lượng bán-quân-sự nằm vùng sau khi Việt-Minh đến tiếp-thu... .Tại Miền Nam Lansdale giúp loại Tướng Nguyễn Văn Hinh; huấn-luyện quân-đội; móc nối các lãnh-tụ giáo-phái Cao-Đài và Hòa-Hảo về với chính-quyền; cải-tuyển cựu lực-lượng Cao-Đài do Tướng Trình Minh Thế chỉ-huy để đánh dẹp Bình-Xuyên; đặt kế-hoạch cho cuộc Trưng-Cầu Dân-Ý truất-phế Bảo-Đại với mánh-lới “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”; được TT Ngô Đình Diệm xem là người bạn Mỹ tín-cẩn nhất, mời vào ở chung, tâm-sự cả chuyện tình yêu nam-nữ của mình. Neil Sheehan viết rằng Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa của Diệm là do Lansdale dựng nên... . Năm 1963, trong bộ tham-mưu của Tổng-Thống Mỹ Kennedy, Lansdale chống lại mưu-toan lật đổ TT Diệm nên bị mất chức.

Nguồn: Edward Geary Lansdale. 1991. In the Midst of Wars. New York: Fordham University Press.

http://www.ask.com/wiki/Edward_Lansdale

http://www.statecraft.org/chapter8.html

http://www.historynet.com/ed-lansdales-black-warfare-in-1950s-vietnam.htm

Trở lên ▲

► Tham-chiếu 3:

Theo Ông ĐOÀN THÊM

(Cựu Phụ-Tá Đổng-Lý Văn-Phòng Phủ Tổng-Thống Đệ-Nhất Cộng-Hoà):

“3-2-1962.- Thiết lập Ủy-ban Trung-ương đặc-trách Ấp Chiến-lược. Ủy-ban họp mỗi tuần một lần, do Cố Vấn Ngô-đình-Nhu chủ tọa, gồm đa-số các Bộ-trưởng và cao-cấp quân-dân-chính (SL 11/TTP)”

Nguồn: Hai Mươi Năm Qua - Việc từng ngày (1945-1964). Đoàn Thêm. Houston, Texas: Xuân Thu, 1965 (trang 314)

Theo nhà văn CHÍNH ĐẠO

(Tiến-Sĩ Vũ Ngự Chiêu):

“3/2/1962:

*Saigon: Diệm ký nghị định số 11/TTP, tuyên bố quốc sách Ấp Chiến Lược, và thành lập Ủy Ban Liên Bộ đặc trách Ấp Chiến Lược...”

Nguồn: Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 - Tập I-C: 1955-1963. Chính Đạo. Houston, Texas: Văn Hóa, 2000 (trang 241)

Theo Tiến-Sĩ NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN

(Cựu giáo-sự Đại-Học Vạn Hạnh và Đà Lạt):

“Ngày 22 tháng 3 năm 1962

Hơn 4,000 Ấp Chiến Lược được chính phủ Ngô Đình Diệm công bố thành lập ở Miền Nam Việt Nam. Các ấp chiến lược này được tổ chức theo kiểu mẫu của các làng chống Cộng bên Mã Lai đã giúp Mã Lai thanh toán hiểm họa đỏ...”

Nguồn: Những Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam 1945-1975. Nguyễn Đình Tuyến. Houston, Texas: Đại Học Đông Nam, 1995 (trang 63)

Ý-Kiến: Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu) cầm quyền từ 7-7-1954 đến 1-11-1963 (là hơn 9 năm), mà mãi đến năm 1962 (tức là 8 năm sau − cũng là 2 năm sau khi đã bước vào thời-kỳ suy-thoái rõ-rệt của chế-độ từ năm 1960 rồi), mới chịu đem cái "bửu bối" Ấp Chiến-Lược ra mà thi-hành, thì làm sao mà bảo là Ấp Chiến-Lược đã vô-hiệu-hóa được hoạt-động của cộng-sản tại Miền Nam Việt Nam?

Trở lên ▲

► Tham-chiếu 4:

Theo Ông NguyỄn HỮu Hanh

(Cựu Cố-Vấn Kinh-Tế, Tài-Chánh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm;

Cựu Tổng-Giám-Ðốc Ngân-Hàng Quốc-Gia Việt-Nam [1955-1962]):

“... Ông (Ngô Đình Diệm) làm việc rất nhiều, cả ngày lẫn đêm, bởi ông chẳng có trò giải trí nào, không chơi môn thể thao nào, không có món tiêu khiển bất cứ kiểu nào. Môn giải trí duy nhất của ông là đi thanh tra các dự án xây dựng mới, các vùng kinh tế mới, các khu định cư mới, những gì mà ông tin rằng ông đã làm vì quyền lợi dân chúng. Bởi vì ông rất nôn nóng nhìn thấy những việc này tiến triển nhanh chóng, nên những viên chức có trách nhiệm thường gian lận và nói dối ông. Một ngày nọ, khi tôi đi thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long, dân chúng trong vùng đã chỉ tôi xem những cái cây mới mà viên tỉnh trưởng bắt họ trồng trong một dự án tái định cư để ông Diệm đi thanh sát. Theo lời đề nghị của các bô lão địa phương, người tài xế của tôi đã nhổ thử một cây lên cho tôi xem: đó là một cành cây mới cắt được cắm xuống đất ướt! Ở nông thôn người ta biết tôi rất gần gũi với Tổng thống và tôi dám nói sự thật với ông, vì vậy họ không ngần ngại tiết lộ các trò gian lận và những cuộc trình diễn dỏm của đám tỉnh trưởng và quận trưởng.

“Một lần khác tôi tới thăm một vùng kinh tế mới gần Mỹ Tho; tôi nhìn thấy một dãy hàng cây ăn quả dọc lộ có vẻ như sắp chết héo. Tôi dừng xe lại, bước tới coi. Một người nông dân tiến tới phía tôi và hỏi nhỏ tôi có muốn coi mấy cây hay không. Anh ta nhổ lên một cây và đưa cho tôi: đó là một cái cành được cắt khỏi cây và cắm xuống đất. Anh ta lập tức biến mất, rõ ràng sợ bị nhìn thấy nói chuyện với người lạ. Sau này tôi được biết là những việc như vậy xảy ra rất thường xuyên, bởi vì các viên tỉnh trưởng và quận trưởng đều muốn tỏ cho Diệm thấy là họ đã mở mang các dự án mới một cách mau chóng, họ muốn được ông Diệm đánh giá cao, muốn “ghi điểm”, và thăng chức. Tôi nghe nói một lần ông đến thăm một dinh điền mới với một ông trung tá, trách nhiệm về dinh điền này, ông cầm lên xem một cành cây có trái; bỗng nhiên cành cây rơi xuống đất, ông biết là cành cây mới được cắm. Ông quay lại nhìn ông trung tá, mặt ông đỏ bừng; ông hét lên, ông cầm cây ba ton của ông, đánh vào người ông trung tá. Ông này quì xuống lạy xin tha tội, mặt tái mét và nước mắt rưng rưng; vài ngày sau ông trung tá bị cách chức và đày đi nước độc.”

(Trích từ cuốn hồi-ký “Brushing the World Famous” (“Làm việc với các nhân vật danh tiếng thế giới”)

Theo cựu Đại-Tướng CAO VĂN VIÊN

(qua bài viết của Ông Lâm Lễ Trinh):

“LLT: Trong hồi ký “Vietnam. Histoire secrète d'une victoire perdue” (nxb Perrin, Paris, 1986), giám đốc CIA William Colby xác nhận kế hoạch Ấp Chiến Lược, Strategic Hamlets... . Đúng như vậy không?

CVV: Kế hoạch Ấp Chiến Lược là một việc phải làm để tách CS ra khỏi nhân dân, tách cá khỏi nước, như đã từng thí nghiệm tốt ở Mã Lai với tướng Robert Thompson. Tại VN, có những sơ sót trong việc thi hành bởi một số tỉnh trưởng dàn cảnh, để lấy điểm với thượng cấp.”

(Trích từ “MẠN ĐÀM VỚI ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN” của Lâm Lễ Trinh, ngày 27.1.2006)

Theo Ông Dương hiẾu Nghĩa

(cựu đại-tá - Trong lần diện-kiến Tổng-Thống Ngô Đình Diệm vào đầu tháng 11-1960 trước khi được bổ đi làm Quận-Trưởng Quận Bình-Minh thuộc Tỉnh Vĩnh-Long):

“... Tôi quyết định phải lợi dụng cơ hội duy nhất và hiếm có nầy để thẳng thắn và vắn tắt trình bày những nhận xét của cá nhân tôi về mặt chánh trị, kinh tế, và những điểm bất lợi cho cả chánh phủ lẫn nông dân ở địa phương, đang tạo hậu quả tai hại là sự thất nhơn tâm, vì người dân gặp quá nhiều phiền phức, mất niềm tin vào chánh quyền. Tôi nói:

“Thưa Tổng Thống, các Khu Trù Mật thật sự không có trù mật chút nào. Về phương diện vật chất, người nông dân bị mất đất mất ruộng, đôi khi còn mất cả mùa màng vì phải phá đi sạch sẽ kể cả mồ mả của tổ tiên, cho công tác xây cất Khu Trù Mật, mà không bao giờ được bồi thường thiệt hại. Người dân địa phương còn phải đóng góp công sức và thì giờ vào công tác, mà không bao giờ được trả thù lao (coi như làm xâu). Có trù mật thiệt, nhưng chỉ có trù mật một buổi, vào ngày Tổng Thống xuống khánh thành mà thôi. Trước cả ngàn người dân quê từ các nơi trong tỉnh được huy động về để biến khu đất hoang thành Khu Trù Mật, bằng cách bứng đủ mọi loại cây ăn trái đem về trồng, trang trí, để Tổng Thống và phái đoàn thưởng thức. Có nhiều cây dừa, cau, mới trồng chỉ có một ngày mà đã lên cao hơn 10 thước, đầy trái... Có nhiều cây bưởi “năm roi” của miền Tây mới trồng có một ngày mà có đầy những trái bưởi ngọt “Biên Hòa” vàng ánh, không phải ghép cành mà là ghép trái! Cũng vậy, cam quít trái mùa nhờ kỹ thuật cao “gắn trái ngoài chợ vào”, nên vẫn có trái đỏ cây, đầy vườn, đầy khu... Khu phố chợ vừa mới xây cất xong mấy hôm trưóc, hôm qua còn tạm dùng làm chỗ ngủ cho dân công mà hôm nay có đầy đủ các hiệu chạp phô, tiệm thuốc tây, tiệm thuốc bắc, quán cơm, tiệm cà phê, phòng mạch bác sĩ v.v... từ quận tỉnh mới dọn vào. Ngoài nhà lồng chợ, thì cảnh buôn bán tấp nập. Nhà bảo sanh mới hôm qua còn là phòng họp của ban điều hành buổi lễ khánh thành, mà hôm nay đã có vài người mẹ nằm sanh (không biết từ đâu được đưa đến), giường nệm trắng tinh, tươm tất...

“Mới nhìn qua thì thật là trù mật, nhưng khi Tổng Thống và phái đoàn ra về rồi, thì dân và hàng hóa đâu lại về đó. Vài ngày sau, hoang tàn trở lại với hoang tàn. Cây không trái, lá lìa cành,... cả một màu vàng héo, không còn thấy có một sinh khí nào ở cái khu mà vừa mấy ngày trước đây Tổng Thống và phái đoàn chánh phủ, ngoại giao đoàn... thấy là quá trù mật... Nếu Tổng Thống thật sự muốn thấy cảnh hoang vu vắng vẻ nầy, thì xin Tổng Thống bất thần đi viếng thử bất cứ Khu Trù Mật nào mà Tổng Thống vừa đến khánh thành một hai ngày trước đó.

“Tôi cũng trình bày luôn với Tổng Thống vấn đề an ninh của Khu Trù Mật. Từ ngày khởi công thành lập cho tới ngày khánh thành (và sau đó về lâu về dài an ninh cho một khu đất bỏ hoang) là cả một gánh nặng phí phạm cho lực lượng địa phương. Chính phủ không tranh thủ được nhân tâm của người dân, mà còn phải bị thất nhân tâm hoàn toàn. Người dân quê càng ngày càng xa chánh quyền, như thế thật là không có lợi cho nỗ lực chống cộng....

“... Qua mẩu chuyện nhỏ nầy, cá nhân tôi thấy Tổng Thống Ngô đình Diệm có chịu khó nghe và tìm hiểu tình hình, nhưng lúc nào Tổng Thống cũng có vẻ như bị bưng bít, (nghe thì không nghe được sự thật, thấy thì chỉ thấy toàn là những cảnh được thuộc cấp dàn dựng) lại còn được những người ở chung quanh Tổng Thống cố tình sơn phết cho ông một lớp sơn phong kiến và quan liêu (mà ở bản thân Tổng Thống tôi không thấy có), rất là tai hại cho người lãnh đạo lúc bấy giờ. Dĩ nhiên, cũng rất có hại cho đất nước nữa. Và tôi nghĩ đó cũng là một trong nhiều nguyên nhân gây ra cái chết cho Tổng Thống vào ngày 2 tháng 11 năm 1963....”

(Trích từ bài viết “VỀ CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM” của Ông Dương Hiếu Nghĩa - Saturday, July 19, 2008 12:33 AM)



AP CHIEN-LUOC

“In 1961 the rapid increase of insurgenc
Về Đầu Trang Go down
ThanhKhoa
Đại TướngĐại Tướng
ThanhKhoa


Giáo Sĩ
Chức Vụ Tổng Tư Lệnh
ẤP CHIẾN LƯỢC  Admin
Hạng Nhất
Tiền Đồng : 2147483647
Tổng số bài gửi : 227
Gia nhập : 29/05/2010
Phương châm : Tiền và Tiền

ẤP CHIẾN LƯỢC  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: ẤP CHIẾN LƯỢC    ẤP CHIẾN LƯỢC  Empty20/8/2010, 15:07

“Quốc sách ấp chiến lược” - một sản phẩm chính trị thâm độc

của Ngô Đình Nhu tan theo số phận của gia đình họ Ngô

Nguyễn Đắc Xuân

ngày 19 tháng 8, 2010

Sau Hiệp Định ngừng bắn Genève 1954, chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, được Hoa Kỳ viện trợ, yên ổn trên năm năm. Đến năm 1960, Mặt trận Giải phóng miền Nam VN ra đời và không ngừng phát triển, Nam Việt Nam trở thành 1 trong 10 khu vực thử thách và là khu vực thử thách đầu tiên của chiến lược toàn cầu mới của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ thấy phải tăng cường chiến tranh để chống lại Phong trào giải phóng đang bùng lên. Ngày 29-4-1961 Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ phê duyệt "Kế hoạch chống nổi dậy". Kế đến nhiều phái đoàn nghiên cứu của Mỹ bay sang Việt Nam: Phái đoàn phó tổng thống Mỹ Johnson (5-1961), phái đoàn Tiến sĩ Staley thuộc Viện nghiên cứu Stanford (6-1961), phái đoàn của Taylor và Rosow trong bộ quốc phòng Mỹ (10-1961)..... Sau đó kế hoạch Staley - Taylor ra đời. Kế họach nầy có tham vọng giải quyết chiến tranh VN với 3 giai đọan:

Giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp “Ấp chiến lược” (Strategic Hamlets).

Giai đoạn 2 thực hiện từ đầu năm 1963, khôi phục kinh tế, tăng cường lực lượng quân đội, hoàn thành công cuộc bình định.

Giai đoạn 3 thực hiện đến cuối năm 1965, phát triển kinh tế, ổn định miền Nam và kết thúc chiến tranh.

Kế hoạch được mở đầu và có ý nghĩa quyết định ở giai đoạn 1 là thực hiện cho được “quốc sách Ấp chiến lược”. Đó vừa là mục tiêu cơ bản, biện pháp chiến lược, vừa là kế sách trước mắt và lâu dài để giành thắng lợi trong chiến tranh ở Việt Nam.

1. “Quốc sách Ấp Chiến Lược” (ACL)

Ngày 3-2-1962, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc luật 11/TTP, thiết lập Ủy ban Trung ương Đặc trách ACL, Ủy ban họp mỗi tuần 1 lần, do Cố vấn Ngô Đình Nhu giữ chức Chủ tịch, Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương giữ chức Tổng thư ký, Ủy viên gồm các bộ Quốc phòng, Nội vụ, Giáo dục, Công dân vụ, Canh nông v.v. và nhiều cán bộ cao cấp quân dân chính (1) (Chính Đao, Việt Nam Niên biểu 1939-1975, Tập I-C : 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000, tr. 251). Trụ sở đặt trong ba phòng ở đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). ACL là quốc sách của chính quyền anh em nhà họ Ngô. Với quốc sách ACL Mỹ và VNCH lúc đó dự định sẽ xây dựng 17.000 ấp, gom khỏang 10 triệu dân nông thôn, có thể bình định được vùng nông thôn Miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng.

Ngày 23-3-1962, Sài Gòn phát động chính sách ACL. Thí điểm đầu tiên là khu vực Bến Cát (Bình Dương) tức chiến dịch Mặt trời mọc (Sunrise). Người phụ trách chương trình ACL nầy là Albert Phạm

Ngọc Thảo. Chỉ huy tổng quát là tướng Văn Thành Cao (2) (Chánh Đạo, Việt Nam Niên biểu 1939-1975, Tập I-C : 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000, tr. 251)



Dân quê bị lùa vào "Ấp Chiến Lược"

Mỗi ACL được bao quanh (thường gồm ba hào, hai thành cài chông mìn, dây thép gai), có từ một đến nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, có thiết lập hệ thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập bí mật, ban đêm các cổng chính ra vào được đóng lại. Việc quản lý Ấp do một Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do lực lượng Phòng vệ dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa của Ấp sở tại phụ trách. ẤCL được tổ chức theo phương thức tự quản, tự phòng. nhằm tách rời du kích của lực lượng Giải phóng miền Nam ra khỏi dân nông thôn, cô lập du lích và cơ sở cách mạng để tiêu diệt hay kêu gọi chiêu hồi.

“Quốc sách ACL” là một mô hình bình định nông thôn do Anh quốc thực hiện thành công ở Malaixia. Robert Thompson - chuyên gia quân sự về chống du kích, được mời sang Nam Việt Nam làm cố vấn xây dựng ACL. Tháng 4-1962, quốc hội VNCH tuyên bố chương trình Âp chiến lược là một "quốc sách chống cộng".

Để có tiền thực hiện “Quốc sách ACL”, ngày 21-8-1962, Hoa Kỳ đã ký kết với Chính phủ Diệm sẽ mua 10 triệu Mỹ kim tiền VNCH theo hối suất tự do, để VN có tiền tài trợ các dự án về Ấp Chiến Lược và giúp đỡ đồng bào Thượng tỵ nạn (3) (Đoàn Thêm, sđd. tr.328) Để cho Hoa Kỳ thấy hiệu quả của ngân sách Hoa Kỳ bỏ ra cho VNCH, ngày 30-9-1962 chính phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố đã có 1/3 Tổng số thôn ấp biến thành ALC (4) (Chính Đạo, sđd. Tr. 261) Dưới áp lực của Cố vấn Ngô Đình Nhu, ngày 10-10-1962, Phong trào Nhân Dân tái thiết dinh Độc Lập quyên được hơn 19 triệu, phải dành 10 triệu cho ALC (5) (Đoàn Thêm, sđd. tr.331)

Ngày 26-3-1963, Ngô Đình Nhu chủ trì lễ khánh thành Trại “Nhân, Trí, Dũng” ở trung tâm huấn luyện cán bộ ACL tại suối Lồ Ô (6) (ĐoànThêm, sđd. tr.343). Để thấy sự quan trọng của “quốc sách ACL”, ngày 16-4-1963 tại Trại "Nhân, Trí, Dũng" (suối Lồ Ồ), Ngô Đình Nhu đã chủ trì khóa học 11.

"Bộ trưởng Công dân vụ báo cáo về thành phần dự khóa 11 huấn luyện CB/XDACL gồm các thành phần sau:

-1/ cán bộ cao cấp trung ương, từ cấp Chánh sự vụ trở lên, mỗi bộ năm người. Riêng Bộ ngọai giao có thể cử nhiều hơn;

-2/ một số tỉnh trưởng, quận trưởng chưa thụ huấn, 60 sĩ quan thuộc bộ TTM, 133 sĩ quan khóa I Tâm lý chiến

-3/ Ngoài ra còn có ông luật sư Trần Văn Khiêm (7) (Trần Văn Khiêm, em ruột của Trần Thị Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) tình nguyện theo học nữa (Cool (Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets" , Douglas Pike Collection: Other Manuscripts , TexasTech University. Trích lại của Hữu Nghị: và cuộc đảo chính Diệm Nhu:Nhu va Ấp chiến lược.)

Nhiều giáo sư, giảng viên Đại học Huế đã có mặt trong khóa học nầy. Cũng nhờ qua khóa học ấy mà đa số các giáo sư, giảng viên Đại học Huế thấy được âm mưu phá họai lịch sử văn hóa tôn giáo truyền thống Việt Nam như thế nào. Nhiều người “tốt nghiệp”khóa học ấy đã về Huế tham gia Phong trào thanh đấu chống chế độ gia đình trị họ Ngô từ tháng 5 cho đến đầu tháng 11-1963. (nguồn: đã dẫn ở trên(Nguồn: "Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets" , Douglas Pike Collection: Other Manuscripts , Texas TechUniversity). Trong thời gian đang diễn ra khóa học ACL lần thứ 11, ngày 17-4-1963, nhân viên Phủ Tổng Thống khánh thành ACL Bình Hưng gần Phú Lâm, do Chi đòan Công chức bảo trợ (9) (Đoàn Thêm, sđd tr.345) các học viên khóa học có dịp thấy nhãn tiền tham vọng biến miền Nam trở thành “tiền đồn chống Cộng, chống văn hóa truyền thống VN” của anh em nhà họ Ngô. .


Từ khi thực hiện “Quốc sách ACL”, hành quân càn quét lập ấp chiến lược trở thành hoạt động chủ yếu nhất của quân đội VNCH, sôi nổi nhất trong những năm 1962 - 1963. Tính đến cuối năm 1962 đã có gần 4.000 cuộc hành quân càn quét phục vụ cho chương trình ACL, trong đó có nhiều cuộc càn quét quy mô lớn như "Chiến dịch mặt trời mọc", "Chiến dịch Bình Tây", "Chiến dịch Sao Mai", "chiến dịch Thu Đông"... Đến cuối năm 1962 đầu năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố đã xây dựng được 9.095 ấp, gom giữ được khoảng 8 triệu dân.

2. “Quốc sách Ấp Chiến Lược”mong manh

“bùa hộ mạng” của Ngô Đình Nhu

Với kết quả được báo cáo như thế, Cố vấn Ngô Đình Nhu rất tự hào về thành tích ấy. Nhưng Ngô Đình Nhu không được cơ sở báo cáo rằng hằng đêm đã có bao nhiêu ACL đã bị phá, có bao nhiêu ACL do người của Mặt trận Giải phóng tổ chức, chỉ huy, ví dụ như trường hợp Albert Phạm Ngọc Thảo ở ấp thí điểm Bến Cát (Bình Dương) nói trên.



Mô hình tổng quát ấp chiến lược (ảnh history.sandiego.edu)

Sự thực thì việc xây dựng các ACL rầt mất thì giờ, rất tốn kém nhưng “kết quả” không như Nhu tưởng. ACL không giúp gì cho việc hành quân chống Cộng của quân đội mà ngược lại, miền Nam càng có nhiều ACL càng phát sinh nhiều đồn bót buộc quân đội VNCH phải thêm nhiệm vụ bảo vệ. Do đó quân đội VNCH rất lơ là với “quốc sách ACL”. Ngô Đình Nhu rất ưu tư vấn đề nầy.

Biên bản một cuộc họp của Ủy ban liên Bộ về ACL, ngày 2-3-1963, ghi lại nội dung thuyết giảng của Nhu về "quốc sách ACL" như sau:

"Tôi chỉ yêu cầu vùng, tiểu khu để ý đến những vùng lập ACL, chớ không phải chỉ lo cho ACL mà thôi. Vì dù có lập ACL hay không, bao giờ địch tập trung tấn công, thì quân đội cũng phải đối phó cả. Ủy ban ACL chỉ yêu cầu quân đội hai việc: một là đặc biệt cảnh giác vùng lập ACL; hai là đuổi địch đừng để cho địch tập trung đại đơn vị trong vùng lâp ACL được. ACL được thành lập sẽ chắc chắn làm nhẹ đi trách nhiệm của quân đội. Trước đến giờ, hành quân là tìm địch. Tìm không được, thì trở về, địch hoat động trở lại. Mình đi nhiều, địch phân tán hết. Mình đi ít, địch phục kích. Như vậy, dầu nhiều hay dầu ít, hành quân cũng bất lợi, vì tốn kém, mỏi mệt, ít khi thành công xứng đáng với cố gắng của quân đội". (nguồn: đã dẫn ở trên, trích lại của Hữu Nghị).

Ý kiến của Ngô Đình Nhu không được thực hiện như Nhu muốn, do đó trong cuộc họp ngày 12-4-1963 Nhu đã phê phán gắt hao Ủy ban liên bộ như sau:

- "Tôi nhận thấy việc tiếp viện cho các ACL bị VC tấn công không được thực hiện đúng mức và kịp thời. Các tỉnh phải liên lạc thường xuyên bằng vô tuyến với các quận để thông báo tin tức cho nhau đề cảo cảnh giác, đồng thời cấp quận cũng phải liên lạc luôn luôn với các ACL để hỏi biết tình hình, tin tức và đốc xuất họ đề cao cảnh giác, nhất là về ban đêm và các ngày nghỉ lễ, chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Thường, tôi thấy các địa phương còn thiếu ý thức cảnh giác, nhất là trong những ngày nghỉ, vì vậy tội yêu cầu các ông tỉnh trưởng, quận trưởng phải cố gắng làm việc nhiều hơn trong những ngày đó. Nếu cần nghỉ, thì nghỉ vào những ngày khác trong tuần, để tránh qui luật cố định mà địch có thể lợi dụng" (Trong một cuộc họp ngày 16-9-1963, Cố vấn Ngô Đình Nhu đã nổi nóng với các tướng tá VNCH rằng:

"Sau mỗi lần VC tấn công một ấp chiến lược (ACL), tôi yêu cầu các Khu chiến thuật và cấp tỉnh, quận tổ chức hành quân trả đũa tức thới. Vấn đề này tôi đã đề cập nhiều lần nhưng chưa thấy các nơi tích cực thi hành. Nếu ta không hành quân trả đũa, thì đương nhiên ta khuyến khích địch tấn công mạnh các ACL. Tôi cũng nhận thấy bên quân đội không chú trọng nhiều tới việc yểm trợ công tác xây dựng ACL".

Tối 18-9-1963, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge mời cơm Cố vấn Ngô Đình Nhu và Bộ trưởng ngoại giao Trương Công Cừu. Trong điện tín đánh đi trưa hôm sau về Bộ ngọai giao Hoa Kỳ, Cabot Lodge có nhận xét: "Nhu nói thật nhiều, lập đi lập lại rằng y đã sáng tạo ra các ACL, rằng ai cũng bảo, kể cả người Mỹ, rằng y sẽ không làm nổi được đâu, song y vẫn đã làm được" (nguồn: FRUS, vol.IV, 129). Cabot Lodge viết như thế có nghĩa là Nhu muốn chứng tỏ cho Hoa Kỳ biết không ai có thể thay thế Nhu trong công cuộc “chống Cộng” ở miền Nam Việt Nam. Rõ ràng Nhu muốn lấy “Sự thành công” của “Quốc sách ACL” làm cái bùa hộ mạng cho mình. Và, ACL cũng là sự nghiệp chính trị lớn nhất của “Cố vấn Ngô Đình Nhu”.

3. Giải tán quốc sách Ấp Chiến Lược - lời chê tiếng khen

Quốc sách ACL biến những làng quê trở thành đốn bót quân sự sẵn sàng chiến đấu, những làng nào không thuận tiện biến thành làng chiến đấu thì phải dọn đến những nơi thuận tiện, bỏ hết nhà thờ họ, đình chùa, miếu mạo mang truyền thống văn hóa Việt ra đời từ thuở sinh cơ lập nghiệp và có thể thay vào đó một ngôi nhà thờ Thiên chúa giáo. Quốc sách ACL là một quốc sách phản dân (10) (Mười tám năm sau vụ đảo chính Diệm - Nhu. William Colby, nguyên giám đốc CIA, người đã từng làm trưởng luới CIA tại miền Nam từ năm 1959, trong một cuộc phỏng vấn dành cho chương trình "Phỏng vấn sử học " của thư viện Lyndon Baines Johnson ngày 2-6-1981 đã phát biểu: "Tôi nghĩ rằng đó là một sai lầm của trào Diệm - Nhu khi nhấn mạnh đến ACL. Do lẽ ACL không phải là một bộ phận truyền thống của chính quyền. Nhu đã góp phần vào tư duy ACL đó, Nhu không muốn bộ máy quyền lực truyền thống trong làng mạc tồn tại. Lẽ ra Nhu nên giữ lại bộ máy quyền lực cổ truyền này".) (Trích lại của Hữu Nghi). (Do đó, tướng Dương Văn Minh sau khi đã triệt hạ được gia đình họ Ngô, vào ngày 9-3-1964 ra tiếp Sắc luận 103/SL/CT “giải tán” cái gọi là “quốc sách ấp chiến lược” để cho dân lập lại làng quê cũ hay về lại làng quê đã bị bắt buộc phải ra đi.



Đồng bào nổi dậy đập tan hàng loạt ấp chiến lược của địch

Chủ trương nầy của Dương Văn Minh đã giúp cho dân chúng nông thôn phá rã hàng ngàn ấp chiến lược. Không những dân quê đứng lên phá ACL, ngay sinh viên Đại học Huế cũng đã tổ chức thành nhiều nhóm về các vùng nông thôn, nhân danh “chống dư đảng Cần lao” triệt hạ bộ máy cai trị ở làng xã ra đời thừ thời Diệm Nhu, phá các ACL, lập nên chính quyền “thân dân” ở nông thôn chung quanh Huế. Người đứng đầu Phong trào nầy là sinh viên Luật Nguyễn Thiết, sinh viên Cao đẳng Mỹ Thuật Lê Minh Trường, Sinh viên văn khoa Lê Mạnh Trinh…Phong trào phá Ấp chiến lược ở vùng nông thôn Thừa Thiên Huế đã góp một phần quan trọng cho Phong trào đồng khởi của Mặt trận Giải phóng Thừa Thiên năm 1964.

Linh mục Cao Văn Luận- nguyên Viện trưởng Viện Đại học Huế, một trí thức phò Ngô, đã phê phán Sắc luật giải tán ACL của Dương Văn Minh như sau:

“Tôi lại nghe một tướng lãnh cầm đầu phe Cách-Mạng (tức Trung tướng Dương Văn Minh) tuyên bố rằng ấp chiến lược không cần thiết, không ích lợi, những hàng rào quanh Ấp chiến lược là hàng rào nhà tù.

Không cần ông phải ký sắc lệnh cho phép dân chúng phá các hàng rào Ấp Chiến lược thì các cán bộ nằm vùng của Cộng sản cũng dựa lời tuyên bố vội vàng hớ hênh đó, giải thích sai lạc thêm lời tuyên bố đó, để mở ra một phong trào phá bỏ Ấp chiến lược, gỡ rào, san bằng hào lũy giải giới thanh niên chiến đấu. Nhiều Ấp chiến lược trước đây lập được những thành tích ngăn chận Cộng sản hữu hiệu, nay thanh niên chiến đấu và cán bộ công dân lo sợ bị tân chế độ đàn áp bắt bớ, vứt súng bỏ trốn, bỏ ngỏ các Ấp chiến lược cho du kích Việt Cộng và các cán bộ nằm vùng. Việt Cộng xúi dân nổi lên phá rào, san lũy, giải giới thanh niên chiếm đấu, mở ngỏ đón bọn Cộng sản nằm vùng. Nhiều Ấp chiến lược kiểu mẫu, qui tụ phần lớn giáo dân trở thành nạn nhân đầu tiên của phong trào sai lầm này” (11) (LM.Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Hồi ký 1940-1965, Nxb Trí Dũng, SG 1972, tr.381)

Trong buổi lễ “Tưởng niệm cố Đại tướng Dương Văn Minh” tổ chức tại Chùa Việt Nam (Los Angeles) vào ngày 18.9.2001, ông Đỗ Mậu - người cùng với tướng Dương Văn Minh tổ chức lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm tháng 11-193, tác giả hồi ký Việt Nam máu lửa quê hương tôi đã đọc bài “Khóc Dương Văn Minh” gồm 10 trang in cở A4. Trong những ý nghĩ cuối đời, ông Đỗ Mậu cho rằng ông Dương Văn Minh “là một lãnh tụ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng”. Đỗ Mậu viết:

“Với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng ông (Dương Văn Minh) đã đưa ra hai quyết định mà chỉ có thời gian và chánh tình quốc tế mới chứng minh được ông là một lãnh tụ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng. Đó là việc ông ra lệnh hạ sát hai ông Diệm Nhu và quyết định hủy bỏ “Quốc sách ấp chiến lược” (NĐX nhấn mạnh) vì chương trình này là những chủ trương vô cùng thâm độc. Anh em nhà Ngô và người Công giáo Việt Nam lấy lý do chống Cộng sản để xây dựng chương trình, nhưng mục đích thầm kín là để triệt hạ nền văn hóa dân tộc, xóa bỏ đạo thờ cúng ông bà, xóa bỏ đời sống xã hội theo truyền thống cổ truyền cha ông để lại…” (12) (Hoành Linh Đỗ Mậu, Khóc cố Đại tướng Dương Văn Minh, 10 trang in cở A4, trước khi qua đời tác giả gởi cho Nguyễn Đắc Xuân một bản sao)


“Quốc sách ACL” bị giải tán, giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp “Ấp chiến lược” (Strategic Hamlets) của kế hoạch Staley - Taylor hòan tòan thất bại. Vì thế Mỹ và VNCH không thực hiện được giai đọan hai và giai đọan ba để giành chiến thắng, kết thúc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam vào năm 1965 như họ đã lập kế họach. Sự thất bại của quốc sách ACL mở đầu cho những thất bại lớn hơn về sau không phải vì thiếu tiền, thiếu kỹ thuật phòng thủ, thiếu phương tiện mà chính vì nó thiếu chính nghĩa, thiếu cái tâm, đi ngược lại với truyền thống văn hóa của dân tộc. Không chỉ các lực lượng giải phóng dân tộc phá các ACL để cứu dân mà cả những người dù ở bên kia chiến tuyến mà còn một chút thương dân ở đáy lòng cũng phải hành động như thế. Đó là trường hợp của tướng Dương Văn Minh đúng 45 năm trước (1964-2009).

Nguyễn Đắc Xuân, Gác Thọ Lộc, Tháng Một 2009

NDVN, ngày 8/2/09



Tham khảo

- Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Hồi ký 1940-1965, Nxb Trí Dũng, SG 1972

- Chính Đạo, Việt Nam Niên biểu 1939-1975 , Tập I-C : 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000

- Đòan Thêm, 1945-1964 Việc từng ngày , Nam Chi Tùng Thứ SG 1966

- Hòanh Linh Đỗ Mậu, Khóc cố Đại tướng Dương Văn Minh, 10 trang in cở A4, trước khi qua đời tác giả gởi cho Nguyễn Đắc Xuân một bản sao.

- "Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets", Douglas Pike Collection: Other Manuscripts,Texas TechUniversity. Trích lại của Hữu Nghị: Phóng-sự/Mỹ và cuộc đảo chính Diệm Nhu:Nhu va Ấp chiến lược. "Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets", Douglas Pike Collection: Other Manuscripts , Texas TechUniversity.

- The Vietnam War của Ray Bonds

- Vietnam a complete Photagraphic History của Hall Buell



Bài đọc thêm:


Lùa dân vào ấp chiến lược - ảnh vn.360plus.yahoo.com.jpg

Sau khi quân Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết, đế quốc Mỹ gạt hẳn thực dân Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, trực tiếp thực hành ý đồ xâm lược của mình. Tháng 6.1954 đế quốc Mỹ ráo riết tiến hành việc hất cẳng thực dân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về thành lập chính phủ bù nhìn, triển khai kế hoạch phá hoại việc thi hành Hiệp định Genève.

Đế quốc Mỹ không đạt bộ máy cai trị trực tiếp như thực dân Pháp trước đây mà với một hệ thống cố vấn Mỹ, dùng quyền lực viện trợ quân sự và kinh tế để điều khiển chính quyền tay sai. Về quân sự, đế quốc Mỹ trực tiếp xây dựng, huấn luyện, trang bị và chỉ huy quân ngụy. Về kinh tế, miền Nam dần dần biến thành thị trường tiêu thụ của Mỹ.

Một chế độ độc tài, tàn bạo được thành lập tại miền Nam. Mỹ-Diệm ra sức đàn áp các cuộc đấu tranh yêu nước bằng nhiều đợt "tố cộng, diệt cộng". Tháng 5.1959 chúng ra luật 10/59 để công khai chặt đầu những người yêu nước với những hình thức man rợ thời trung cổ. Từ 1954 đến 1959 ở miền Nam có đến 466.000 người yêu nước bị bắt, 68.000 người bị giết.

Nhiệm vụ trước mắt của miền Nam lúc ấy là giữ gìn lực lượng cách mạng. Các tổ chức yêu nước rút vào bị mật. Những căn cứ cách mạng được duy trì. Những hình thức hợp pháp, bán hợp pháp làm bình phong cho hoạt động cách mạng được phát triển. Đồng thời, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành những cuộc đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà.

Đấu tranh tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng được phát động. Đến cuối năm 1957, tại chiến khu Đ, đơn vị vũ trang đầu tiên được thành lập làm nòng cốt cho bộ đội chủ lực Nam Bộ.

Cuối năm 1959 cuộc đấu tranh của miền Nam chuyển hướng thành cuộc đấu tranh vũ trang. Tại nhiều nơi, quần chúng vũ trang nổi dậy diệt ác, phá kìm. Bến Tre phát động một tuần lễ toàn dân đồng khởi nhằm dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại ách kềm kẹp của địch, xây dựng chính quyền cách mạng (1960). Dân chúng nhất tề đứng dậy diệt ác ôn, đánh đồn bót, cướp súng địch, phá vỡ từng mảng lớn bộ máy cai trị của địch ở thôn xã. Từ Bến Tre, làn sóng Đồng Khởi lan ra các tỉnh khác ở Nam Bộ, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Trung.

Trong cao trào nổi dậy của quần chúng miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập nhằm đánh đổ, chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập để tiến tới việc thống nhất nước nhà.

(Theo cinet), ngày 25/4/08

NDVN, ngày 9/2/09



nguồn http://nhandanvietnam.org/view.php?storyid=790




--------------------------------------------------------------------------------

Mời đọc thêm:

Ấp Chiến Lược (Lê Xuân Nhuận)



Trang Lịch Sử


http://sachhiem.net/NDX/NDX018.php
Về Đầu Trang Go down
 
ẤP CHIẾN LƯỢC
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Chiến trang đông dương Lần 2
» Chiến tranh đông dương lần 1

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Liên Minh SVN :: Lịch Sử-
Chuyển đến 
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search